Từ sinh viên xuất sắc của MIT, người phụ nữ làm rung chuyển ngành công nghệ chip: Đưa công ty khỏi bờ vực phá sản, trở thành huyền thoại chấn động ngành công nghệ
"Nữ hoàng thép" Tô Tư Phong đã đưa AMD vực dậy khỏi bờ vực phá sản, trở thành một huyền thoại gây chấn động ngành công nghệ.Tô Tư Phong (Lisa Su) là doanh nhân người Mỹ gốc Đài Loan, là Tổng Giám đốc điều hành của công ty sản xuất linh kiện bán dẫn đa quốc gia AMD. Bà còn từng là học giả của Học viện Kỹ thuật Quốc gia Hoa Kỳ, Chủ tịch Liên minh Bán dẫn Quốc tế kiêm cố vấn Khoa học và Công nghệ cho tổng thống Mỹ Joe Biden. Sau khi bà nắm quyền điều hành công ty AMD vào năm 2014, bà đã đưa công ty từ bờ vực phá sản trở thành công ty sản xuất linh kiện bán dẫn lớn thứ 2 thế giới chỉ trong vòng 6 năm. Giá cổ phiếu của AMD đã tăng vọt, giá trị thị trường vượt mặt Intel, trở thành công ty dẫn đầu về chip. Di cư sang Mỹ cùng gia đình khi mới 3 tuổiCha của Tô Tư Phong là ông Tô Xuân Hoài - sinh viên xuất sắc khoa Toán của Đại học Columbia. Được cha truyền cảm hứng và chỉ dạy từ nhỏ, Tô Tư Phong đã bộc lộ tính tò mò, ưa thích khám phá điều mới lạ. Không giống với những bé gái cùng trang lứa, Tô Tư Phong không hề có hứng thú với búp bê. Từ khi còn nhỏ, bà đã thường xuyên tháo dỡ đồ chơi điện tử của anh trai thành nhiều mảnh. Tuy nhiên, thay vì tức giận với sự nghịch ngợm của con, cha mẹ của Tô Tư Phong lại động viên và khuyến khích bà. Nhận được sự hỗ trợ và ủng hộ từ gia đình, bà ngày càng nuôi dưỡng thêm niềm đam mê đối với khoa học và nghiên cứu. Bà thường xuyên trốn học để chạy khắp nơi tìm hiểu về mọi thứ. Năm 14 tuổi, với thành tích xuất sắc, Tô Tư Phong đã được nhận vào trường trung học Khoa học Bronx ở New York. Đây là ngôi trường cấp 2 hàng đầu thế giới có 6 học sinh đạt giải Nobel. Trong những năm tháng học tập dưới ngôi trường danh giá này, Tô Tư Phong cũng đã thể hiện được năng lực khi giành được "Giải thưởng thiên tài khoa học Westinghouse", được mệnh danh là "Giải thưởng Nobel trẻ". Sự xuất sắc của Tô Tư Phong còn được bộc lộ rõ thông qua việc bà được ưu tiên nhập học vào Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Theo lời khuyên của cha, bà chọn chuyên ngành khó nhất tại MIT - ngành Kỹ thuật điện. Tại lần thực tập đầu tiên, bà được mở rộng rộng tầm mắt trước một con chíp tuy nhỏ nhưng lại ẩn chứa công năng mạnh mẽ. Sau lần đó, bà quyết định chọn chip bán dẫn làm mục tiêu của cuộc đời và tiếp tục theo học Thạc sĩ và Tiến sĩ kỹ thuật điện tại MIT. Biến những điều bình thường trở nên phi thườngNăm 1994, Tô Tư Phong tốt nghiệp Tiến sĩ ở tuổi 24 và trở thành chuyên gia Kỹ thuật tại Trung tâm bán dẫn Texas Instruments. Một năm sau, bà chuyển sang chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển quy trình chip đồng ở Tập đoàn Công nghệ máy tính đa quốc gia IBM. Bằng năng lực vượt trội của mình, bà đã sử dụng công nghệ silicon SOI. Đây trở thành bước đột phá, mở ra một cuộc cách mạng mang tính thời đại trong ngành công nghệ chip. Nhờ đó, bà được thăng chức làm Giám đốc bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) tại IBM và Phó Chủ tịch Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng công nghệ truyền thông R&D. Đồng thời, bà cũng được bổ nhiệm thành trợ lý đắc lực của Chủ tịch IBM Gerstner - vị trí giúp bà có những kinh nghiệm quý giá trong việc phụ trách AMD ở tương lai. Không chỉ xuất sắc về mặt kỹ thuật, Tô Tư Phong còn trang bị cho mình kỹ năng đàm phán thành thạo. Hoạt động kinh doanh chip do bà đứng đầu liên tiếp trở thành đối tác với Sony, Microsoft và Nintendo. Rời đi sau 12 năm cống hiến tại IBM, bà gia nhập Công ty linh kiện bán dẫn Freescale Semiconductor để thử thách bản thân. Tại đây, bà tham gia IPO, lãnh đạo nhóm phát triển máy đọc sách Kindle, mang lại khách hàng lớn cho công ty như Amazon… Với những đóng góp to lớn, bà được thăng chức lên Phó Chủ tịch cấp cao và tham gia quản trị nội bộ. Lửa thử vàng, gian nan thử sứcVào năm 2012, AMD đang trong thời kỳ khủng hoảng do những hỗn loạn trong quản lý nội bộ, công nghệ không có sự bứt phá và những tác động bên ngoài từ đối thủ cạnh tranh Intel. Khi đó, AMD gánh trên vai một khoản nợ khổng lồ và đứng trên bờ vực phá sản. Dù đã sử dụng nhiều biện pháp để xoay chuyển cục diện khó khăn khi phải thay đến 4 CEO, tuy nhiên mọi nỗ lực đều trở nên vô ích. Tại thời điểm đó, Tô Tư Phong đã vượt qua sự ổn định của công việc tại Freescale Semiconductor để trở thành CEO mới của AMD ở tuổi 51. Đối với người khác, đây là một quyết định điên rồ, chẳng khác nào "thiêu thân lao đầu vào lửa". Nhưng với Tô Tư Phong, chinh phục những thử thách khó nhằn luôn là phương châm sống của bà. Sau khi nhậm chức, bà bay tới Beverly Hills để thăm người sáng lập AMD - ông Sanders. Sanders đã tin tưởng và động viên Tô Tư Phong, đem tới niềm tin và động lực to lớn cho bà. Ngay sau đó, Tô Tư Phong bắt đầu phác thảo kế hoạch phát triển chi tiết cho AMD. Nước đi sáng suốtTheo Tô Tư Phong, AMD đang ngày càng xa rời thị trường khi không bắt kịp xu hướng của thời đại và không có kế hoạch kinh doanh hiệu quả. Do đó, một cuộc cải cách đã được thực hiện với 3 bước: Bước 1, hợp lý hóa việc thiết lập bộ phận. Tô Tư Phong luôn có tính quyết đoán trong công việc. Bà đã thẳng tay cắt giảm các phòng ban dư thừa, sa thải gần 30% nhân viên theo kế hoạch. Đồng thời, bà thực hiện tối ưu hóa quy trình làm việc, nâng cao hiệu quả quản lý, thuê các chuyên gia thiết kế chip cao cấp và các kiến trúc sư phát triển chip hiệu năng cao theo chu trình mới. Bước 2, tạo ra sản phẩm chủ lực. Phát triển công nghệ cao là khả năng cạnh tranh thiết thực giúp AMD giành lại thị trường. Bà đã tập trung toàn bộ nguồn lực kỹ thuật của công ty và tập trung vào nghiên cứu bộ vi xử lý Zen. Sau bốn năm và hơn 2 triệu giờ công, sản phẩm công nghệ lõi Zen mới đã được phát triển thành công. Bước 3, nâng cao niềm tin của khách hàng. Tô Tư Phong rất coi trọng phản hồi của thị trường và thường lên mạng để tìm hiểu đánh giá của khách hàng về các sản phẩm AMD. "Làm việc với khách hàng để tạo ra giá trị" luôn là quan niệm dịch vụ mà Tô Tư Phong tâm niệm. Khi không có vốn để kinh doanh, bà đề nghị AMD hợp tác với Tongfu Microelectronics thành lập liên doanh, cấp phép công nghệ Zen cho liên doanh, chuyển nhượng 85% vốn cổ phần cho Tongfu Microelectronics đổi lấy 660 triệu USD cứu lấy công ty. Đối với vấn đề tìm kiếm khách hàng, bà dùng những mối liên hệ đã tích lũy được trong nhiều năm để gặp gỡ và thuyết phục không ngừng nghỉ để có thể giới thiệu sản phẩm. Màn lội ngược tình thế ngoạn mụcVào tháng 3 năm 2017, bộ xử lý AMD đầu tiên dựa trên kiến trúc Zen mới đã ra mắt, hiệu suất vượt trội và giá cả phải chăng đã giành được nhiều lời khen ngợi. Người dùng bắt đầu công nhận lại AMD và tin rằng trình độ kỹ thuật của hãng không kém gì Intel, hãng dẫn đầu về chip vào thời điểm đó. Sau mười năm, AMD cuối cùng cũng có lãi và Tô Tư Phong đã làm được điều mà 4 CEO trước đó không làm được. Ngoài ra, AMD là nhà sản xuất duy nhất trên thế giới sản xuất cả CPU và GPU, sáng tạo tích hợp cả hai thành một con chip, giúp tiết kiệm đáng kể không gian và trọng lượng, được các nhà sản xuất máy tính xách tay rất ưa chuộng. Trong quá trình không ngừng đổi mới và cải tiến, AMD dần giành được các đối tác quan trọng như Huawei, Lenovo, Google, Sony, Tencent, Cisco và Baidu. Vào tháng 2 năm 2022, AMD lần đầu tiên đã thành công có giá trị thị trường vượt qua Intel. Bên cạnh sự thành công rực rỡ của AMD, Tô Tư Phong đã cũng nhận được niềm vinh quang vô hạn. Không chỉ giành được hàng loạt danh hiệu như "Chủ tịch Liên minh Bán dẫn Toàn cầu", "CEO xuất sắc nhất thế giới" và "Nữ doanh nhân có ảnh hưởng nhất thế giới" mà bà còn trở thành một trong những CEO sinh lợi nhất thế giới với mức lương cao.
Việt Nam và cuộc đua bán dẫn: Cổ điển hay lượng tử?
Để tiện hình dung về nền sản xuất và năng lực công nghệ nói chung của Việt Nam khi định theo đuổi giấc mơ bán dẫn, có thể ví một quốc gia chọn công nghiệp làm nền tảng phát triển như một nhà máy sản xuất sản phẩm điện gia dụng.  Phổ sản phẩm họ bán ra thị trường sẽ có 3 loại: loại cơ bản, lời ít số lượng nhiều - để có doanh số; loại trung cao cấp - số lượng vừa phải, lời vừa phải; và loại cao cấp - số lượng ít, lời nhiều. Dần dần phổ sản phẩm sẽ chuyển lên nấc cao hơn, loại cơ bản thành trung cấp, và trung cấp thành cao cấp. Nhờ đó, doanh số tăng, lợi nhuận cũng tăng mà số lượng không cần thiết phải tăng. Khi trình độ sản xuất khác nhauLoại cơ bản dần dà sẽ bị cạnh tranh bởi các công ty nhỏ hơn, trình độ kém hơn, nhưng có lợi thế chi phí, đặc biệt là chi phí nhân công, thấp hơn. Những ví dụ điển hình là các sản phẩm điện gia dụng công nghệ thấp như quạt máy, tủ lạnh, tivi. Điều này cũng đúng ở tầm mức quốc gia: Trung Quốc đi từ dệt may - da giày lên điện tử giá rẻ, và bắt đầu chuyển đổi sang sản xuất công nghệ cao từ đầu những năm 2000. Nhật Bản sau Thế chiến II, với nền tảng có sẵn, chọn ngay phân khúc cao cấp - điện tử, tự động hóa, với Sony là ngọn cờ đầu, và xe hơi, với Toyota, nhưng lại sơ sểnh với máy tính xách tay và mất cơ hội hoàn toàn về điện thoại di động. Quốc gia chỉ tập trung vào phân khúc thấp nhất, dễ nhất và hầu như không có cơ hội vươn lên là Bangladesh. Trong khi đó, nền kinh tế phát triển thành công nhất bằng cách tuần tự nhi tiến phổ sản phẩm là Hàn Quốc. Khởi đầu là nguyên liệu, máy móc dệt may, sau đó là công nghiệp nặng, nguyên liệu thép và bứt lên ngoạn mục về điện tử, điện thoại di động với những tên tuổi như LG hay Samsung; để bây giờ họ trở thành thế lực trong ngành chip. Nếu học về kinh tế phát triển và tìm một nghiên cứu tình huống điển hình nhất cho mô hình phát triển dựa trên công nghiệp, có thể coi Hàn Quốc là hình mẫu lý tưởng. Trong các quốc gia Đông Nam Á, Singapore thành công trong việc lựa chọn phổ trung bình khá đi lên, từ công nghiệp, hóa dầu, sau đó chuyển thẳng lên dịch vụ logistics, kinh tế - tài chính, đầu tư và đổi mới sáng tạo. Malaysia và Thái Lan thành công trong chuyển đổi từ cơ bản sang trung bình khá, nhưng sau đó rơi vào bẫy thu nhập trung bình khi loay hoay không có hướng phát triển đột phá, không tạo ra được sản phẩm có thương hiệu trên toàn cầu, không có xe hơi hay máy tính made in Thailand hay Malaysia. Việt Nam, đoạn đầu đi đúng con đường của Trung Quốc: dệt may - da giày đã thành công. Đoạn sau đi tiếp con đường của Malaysia và Thái Lan, gia công, lắp ráp cụm và thành phẩm sản phẩm điện, điện tử, điện gia dụng. Cũng cố xây dựng thương hiệu quốc gia nhưng thất bại, và cũng đang có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình khi mắc kẹt ở trình độ gia công lắp ráp và năng suất lao động thấp. 
Tương lai xán lạn?Bài toán này dường như không có lời giải cho đến khi thuật ngữ 4.0 và cơn bão AI - công nghiệp bán dẫn xuất hiện vài năm trở lại đây. Tiệm tiến đi lên không được, thời gian qua thông tin dồn dập cho thấy kinh tế Việt Nam định chọn con đường kiểu bước nhảy lượng tử, tức bằng cách nào chưa biết, nhưng hy vọng và quyết tâm là năng lực, trí tuệ và ý chí sẽ giúp chúng ta sớm muộn cũng trở thành trung tâm hàng đầu về nhân sự, công nghệ bán dẫn, về lập trình, thiết kế chip… Rất nhiều doanh nhân thành đạt và yếu nhân của quốc gia đều đồng thanh về tương lai xán lạn của ngành công nghiệp trí tuệ cấp cao này. Nó như là một đợt ra quân và chiến dịch mấy trăm ngày giải tỏa mặt bằng hay kéo đường dây điện 500 KV mạch 3. Thật ra, sự tự tin đó không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Có lẽ một phần sự tự tin xuất phát từ thành công trong quá khứ của Bộ Bưu chính Viễn thông cuối những năm 1990, khi bỏ hẳn công nghệ analog và chuyển sang công nghệ số cho hạ tầng viễn thông. Rồi sau đó là sự bứt phá ngoạn mục của hạ tầng Internet ở Việt Nam nhờ công của những tập đoàn như Viettel hay FPT. Như lời Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (bài viết của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trên Vietnamnet 20-8: "Chiến lược bán dẫn: C = SET + 1"), Việt Nam sẽ trở thành số 1 nếu lựa chọn đúng hướng, nhắm vào chip chuyên dụng, tức chip dùng cho tích hợp AI vào các thiết bị điện tử và chuyển đổi số. Nhật Bản nhờ đưa chip bán dẫn vào cassette, tivi, tủ lạnh mà hóa rồng vào những năm 1970-1980. Bây giờ nếu Việt Nam đưa được chip AI vào thiết bị AI thì cũng có thể nhờ đó mà hóa rồng trong thế kỷ 21. Chip cho phân khúc thị trường này thì dễ làm hơn các loại chip công nghệ cao như của Intel hay Nvidia, mà thị trường lại lớn hơn rất nhiều. Nên đây là cơ hội rõ rệt cho ngành công nghiệp số của Việt Nam, cũng là để góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp chế tạo mà cho đến nay chưa thoát hẳn khỏi công đoạn lắp ráp giản đơn và các ngành giá trị thấp. Để chuẩn bị nhân lực cho cú nhảy lượng tử này, nhanh nhất và hiệu quả nhất là đào tạo lại (ngắn hạn) kỹ sư điện tử, công nghệ thông tin, kỹ sư phần mềm… Đây là cơ hội lớn, hấp dẫn, cần bền bỉ, chấp nhận mạo hiểm và rủi ro. Thông điệp của bộ trưởng là chuẩn xác và rõ ràng. Tuy nhiên, với con mắt của người làm sản xuất, vốn từng nhiều lần hy vọng để rồi thất vọng về hiện thực của nền sản xuất mới chỉ là lắp ráp, chế tạo giản đơn của Việt Nam suốt 20 năm qua, tôi vẫn phân vân với câu hỏi: Ai sẽ sản xuất ra các con chip made in Vietnam? Cho đến giờ, thực tế là chưa có công ty Việt Nam nào sản xuất thương mại được chip. Còn công ty nước ngoài lớn nhất sản xuất chip ở Việt Nam là Intel thì họ chỉ làm công đoạn cuối là test kiểm và đóng gói - công đoạn vốn ít giá trị gia tăng nhất trong chuỗi giá trị của con chip. Ăn sóng nói gió hay ăn chắc mặc bềnViệt Nam chưa có khả năng tự sản xuất chip, đó là sự thật. Đó vẫn là sân chơi của những tay to ngoại quốc. Như vậy viễn cảnh chúng ta hướng tới là Việt Nam lập trình thiết kế chip - đưa cho TSMC của Đài Loan, SK Hynix của Hàn Quốc gia công chế tạo rồi ta bán cho các công ty lắp ráp sản phẩm điện tử, vốn cũng là của nước ngoài nốt, khó thể coi là chắc chắn. Chúng ta sẽ chiếm được bao nhiêu điểm then chốt trong chuỗi giá trị gia tăng của ngành công nghiệp bán dẫn thương mại, khi mà công đoạn chế tạo lẫn khách hàng đầu ra, chúng ta đều không hề chủ động? Nói như vậy không phải để bàn ra, nhưng ngay cả có chấp nhận mạo hiểm và rủi ro, viễn cảnh đó vẫn là hết sức gian nan. Một bài học nhãn tiền và gần gũi hơn: cho tới nay Việt Nam vẫn chủ yếu chỉ là nơi nhận gia công lại trong ngành công nghiệp phần mềm, còn các khâu có giá trị gia tăng cao nhất, như thiết kế và nội dung gốc, thiết bị phần cứng, hay chợ ứng dụng, đều không có cái tên nào thực sự là của Việt Nam. Lựa chọn phát triển phổ sản phẩm cao là công nghiệp bán dẫn, với Việt Nam, có thể được coi là chiến lược đột phá kiểu bước nhảy lượng tử, tức nhảy vọt nhờ vào năng lượng đột ngột. Nhưng nên chăng chúng ta cũng cần tin ở vật lý cổ điển của trần gian đã. Tức nếu đại kế hoạch bán dẫn, nói phỉ phui, chẳng may mà thất bại thì phân khúc dưới, cơ bản và trung bình khá, nơi vẫn đang tạo ra sinh kế cho hàng triệu người lao động, vẫn phải duy trì được doanh số và sức cạnh tranh. Nguồn lực của một quốc gia, nhất là một nước còn nhiều khó khăn như Việt Nam, là rất có hạn, hay nói như các kinh tế gia, là khan hiếm. Một đồng bỏ vào bán dẫn là một đồng mất đi cho làm ốc vít, đường sá, hay lưới điện. Lẽ đó, không nên bỏ quá nhiều trứng vào cái giỏ chip. (Và không chỉ có phân khúc cao cấp mới xảy ra chuyện này, Bangladesh, vì đã đầu tư quá nhiều cho phân khúc dưới, dệt may - da giày, đến khi xảy chuyện, khó cứu). Thật ra, ngay cả các phân khúc sản xuất thấp và trung cấp của chúng ta cũng chẳng hề thống lĩnh hay dẫn đạo thị trường gì cho cam. Chỉ cần lơ là, chúng sẽ thuộc về người khác. Làn sóng dịch chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang Đông Nam Á cũng chính là lời cảnh báo cho những nơi đón sóng, vì sóng đến, rồi sóng sẽ đi. Hoài bão về trung tâm hàng đầu công nghệ bán dẫn của thế giới, rất nên trân trọng dành cho 1/10 số nhân lực tài năng, tâm huyết cống hiến, hy sinh và mạo hiểm. Nhưng còn 90% khác, có lẽ cần nhớ tập trung làm thật tốt và tốt hơn những gì đang nuôi sống mình bao nhiêu năm nay
Vì sao nhiều "ông lớn" công nghệ giúp Việt Nam đào tạo nhân lực?
Các tập đoàn công nghệ lớn của nước ngoài mong muốn đưa Việt Nam trở thành một nhân tố quan trọng trong ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầuNhiều tập đoàn công nghệ lớn như Synopsys, Cadence, Qorvo (Mỹ) Samsung (Hàn Quốc) và Siemens (Đức)... đang tích cực hỗ trợ Việt Nam đào tạo nhân lực chất lượng cao ngành công nghệ, nhất là ngành bán dẫn. Trong Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 vừa được Chính phủ phê duyệt, Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, đào tạo ít nhất 50.000 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn. Để thực hiện được mục tiêu đào tạo như trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động kết nối, thiết lập quan hệ với các tập đoàn công nghệ lớn như: Synopsys, Cadence, Qorvo, Samsung, Siemens... để hợp tác đào tạo
Việt Nam đang đẩy mạnh các ngành sản xuất công nghệ cao Đầu tháng 5-2024, Tổ hợp Samsung Việt Nam phối hợp với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) chính thức triển khai đào tạo Chương trình Phát triển nhân tài công nghệ – Samsung Innovation Campus (SIC) tại NIC. Đây là hoạt động nằm trong Biên bản ghi nhớ hợp tác triển khai các dự án giáo dục và phát triển công nghệ cao cho thế hệ trẻ Việt Nam giữa Samsung Việt Nam và NIC đã được ký kết vào tháng 10-2023 nhằm bồi dưỡng nhân tài công nghệ, đưa Việt Nam trở thành điểm đến của đổi mới sáng tạo trong khu vực và thế giới. Samsung Việt Nam phối hợp cùng NIC triển khai 2 lớp đào tạo về Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI), 2 lớp đào tạo về Internet vạn vật kết nối (Internet of Things – IoT) và 2 lớp đào tạo về Dữ liệu lớn (Big Data) dành cho khoảng 200 sinh viên đến từ một số trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học FPT. Tổng Giám đốc Tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho cho biết Samsung sẽ tiếp tục nghiên cứu các khả năng mở rộng hợp tác với NIC và hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực trong ngành bán dẫn.Từ giữa tháng 7 vừa qua, 2 tập đoàn bán dẫn của Mỹ là Qorvo và Cadence tổ chức lễ khai giảng chương trình đào tạo thiết kế vi mạch và ký kết thỏa thuận hợp tác với Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC). Theo cam kết của tập đoàn bán dẫn hàng đầu Mỹ là Qorvo, đơn vị này sẽ cử giảng viên, chuyên gia cấp cao giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực thiết kế vi mạch bán dẫn. Trước đó, vào tháng 3-2024, Tập đoàn công nghệ Synopsys (Mỹ) đã ký kết hợp tác tăng cường năng lực đào tạo và nghiên cứu lĩnh vực thiết kế vi mạch tại Đại học Quốc gia TP HCM. Theo đó, Synopsys chia sẻ giáo trình đào tạo và cấp phép sử dụng các bộ công cụ, phần mềm thiết kế chip cho sinh viên của Đại học Quốc gia TP HCM.
Các tập đoàn công nghệ lớn của thế giới cam kết cùng Việt Nam đào đạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực bán dẫn Synopsys tiếp nhận sinh viên đến thực tập và giới thiệu việc làm cho kỹ sư thiết kế vi mạch được đào tạo tại Đại học Quốc gia TP HCM với doanh nghiệp trong và ngoài nước. Synopsys hỗ trợ bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ lĩnh vực thiết kế vi mạch thông qua chương trình đào tạo ngắn hạn "Train-the-Trainer". Việc hợp tác với Synopsys được kỳ vọng sẽ giúp Đại học Quốc gia TP HCM đào tạo được khoảng 1.800 kỹ sư có trình độ cao trong lĩnh vực thiết kế vi mạch trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.Ông Vũ Quốc Huy, Giám đốc NIC cho biết các đối tác đã cung cấp cho NIC khoảng 1.000 license (bản quyền phần mềm) phục vụ việc đào tạo thiết kế vi mạch. Từ đó, NIC đã phối hợp, chia sẻ license cho các trường để họ tiến hành những chương trình đào tạo chính quy, đưa vào chương trình đào tạo chính quy các nội dung về thiết kế bán dẫn. NIC cũng phối hợp với các trường tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn trực tiếp cho hơn 1.000 giảng viên, kỹ sư cho ngành công nghiệp bán dẫn, thiết kế vi mạch. Thời gian tới, việc kết nối, phối hợp với các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới đào tạo nhân lực ngành bán dẫn sẽ tiếp tục được đẩy mạnh để hoàn thành mục tiêu đào tạo được 50.000 kỹ sư ngành bán dẫn vào năm 2030. Theo Báo Người lao động
Chủ tịch tập đoàn Meta sẽ sang Việt Nam phát biểu tham luận tại Hội thảo về AI và bán dẫn vào ngày 1/10
Từng là một chính trị gia, ngài Nick Clegg đã có sự chuyển mình để hoạt động trong lĩnh vực công nghệ với vai trò Chủ tịch Quan hệ Toàn cầu của Tập đoàn Meta. Trong thế giới chính trị và công nghệ toàn cầu, Nick Clegg là một trong những nhân vật có sự chuyển đổi sự nghiệp đáng chú ý nhất. Từ vai trò Phó Thủ tướng Vương quốc Anh, ông đã trở thành một nhân vật quan trọng trong lĩnh vực công nghệ với vị trí Chủ tịch Quan hệ Toàn cầu của Meta (trước đây là Facebook). Sự xuất hiện của ông tại sự kiện Innovate Viet Nam 2024, diễn ra từ 1/10 tới đây tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia cơ sở Hòa Lạc hứa hẹn mang đến những góc nhìn sâu sắc về vai trò của công nghệ, AI, và tầm ảnh hưởng của các thế hệ trẻ trong thời đại số hóa. Xuất phát điểm từ chính trị Nick Clegg sinh ngày 7/1/1967 tại Chalfont St. Giles, Buckinghamshire, Anh. ông sinh ra trong một gia đình đa văn hóa, với mẹ là người Hà Lan và cha mang dòng máu Đức-Nga. Điều này giúp ông thông thạo nhiều ngôn ngữ, bao gồm Anh, Hà Lan, Pháp, Đức, và Tây Ban Nha. Trước khi bước chân vào chính trường, ông Nick Clegg từng làm việc với tư cách là một nhà báo cho tờ Financial Times. Nick Clegg bắt đầu sự nghiệp chính trị khi được bầu làm Thành viên Nghị viện Châu Âu vào năm 1999 và nhanh chóng nổi lên như một gương mặt nổi bật trong Đảng Tự do Dân chủ. Với vai trò Phó Thủ tướng, ông đã giữ vai trò quan trọng trong việc điều hành các chính sách của chính phủ. ông đã trở thành một trong những lãnh đạo chính trị hàng đầu của Vương quốc Anh và đóng góp đáng kể vào việc xây dựng các chính sách đổi mới trong thời gian đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo. Chuyển mình sang lĩnh vực công nghệ Sau khi kết thúc sự nghiệp chính trị, ông Nick Clegg đã quyết định chuyển sang lĩnh vực công nghệ khi gia nhập Meta (trước đây là Facebook) vào năm 2018 với vai trò Phó Chủ tịch Toàn cầu về Chính sách và Truyền thông. Đây là một bước đi quan trọng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chính trị sang một lĩnh vực mới, nơi ông đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chính sách và quan hệ công chúng của Meta trên toàn cầu. Năm 2022, ông được thăng chức lên vị trí Chủ tịch Quan hệ Toàn cầu của Meta, trở thành một trong những nhân vật hàng đầu chịu trách nhiệm về các chiến lược đối ngoại và chính sách toàn cầu của công ty. Vai trò của ông Nick Clegg bao gồm việc đại diện Meta trước các cơ quan chính phủ và quản lý chính sách nội dung trên các nền tảng của Meta. Mark Zuckerberg – CEO của Meta, từng nhấn mạnh rằng việc thăng chức Nick Clegg là một phần trong chiến lược của công ty nhằm có một nhà lãnh đạo có tầm ảnh hưởng trong việc điều hành chính sách toàn cầu. Trong vai trò này, Nick Clegg đã đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm giải quyết các vấn đề về quyền riêng tư dữ liệu, tin giả, và việc Meta chuyển đổi từ Facebook sang định hướng về Metaverse. ông đã giúp Meta thay đổi quan điểm về các quy định pháp lý và thuế, cũng như tạo ra các thay đổi về sản phẩm để người dùng có thể kiểm soát nội dung trên mạng xã hội. Nick Clegg không chỉ là một nhà lãnh đạo tài ba trong lĩnh vực chính trị mà còn là một người có tầm nhìn xa trông rộng trong việc định hình tương lai công nghệ. Dưới sự dẫn dắt của ông, Meta đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc tương tác với các chính phủ, các cơ quan quản lý, và người dùng trên toàn cầu. ông đã giúp Meta thay đổi cách tiếp cận đối với các quy định pháp lý, hướng tới sự minh bạch và trách nhiệm trong việc kiểm soát nội dung trên nền tảng của mình. Sự hiện diện đặc biệt của ông Nick Clegg tại Innovate Viet Nam 2024 Tại sự kiện Innovate Viet Nam 2024, ông Nick Clegg sẽ có bài tham luận đặc biệt trong phiên hội thảo mang tên "Doanh nghiệp và thế hệ trẻ trước làn sóng AI, bán dẫn: Biến Thách thức thành Cơ hội", tổ chức vào chiều ngày 1/10 tại Hội trường Đổi mới sáng tạo, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia cơ sở Hòa Lạc, Hà Nội. Đây là một trong những phiên đáng chú ý nhất của sự kiện, nơi ông sẽ chia sẻ về cách AI đang trở thành động lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế và cách Việt Nam có thể tận dụng công nghệ này để thúc đẩy sự thịnh vượng. Phiên hội thảo này không chỉ tập trung vào việc thảo luận về AI mà còn mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế tìm hiểu về xu hướng công nghệ mới, thông qua góc nhìn của một chuyên gia hàng đầu như Chủ tịch tập đoàn Meta. Sự kiện này còn đánh dấu cam kết dài hạn của Meta đối với thị trường Việt Nam. Dự kiến tập đoàn Meta sẽ công bố một số cam kết quan trọng nhằm hỗ trợ quá trình đổi mới sáng tạo, giúp Việt Nam trở thành một trung tâm công nghệ trong khu vực. Việc tham gia của Chủ tịch tập đoàn trong Innovate Viet Nam 2024 nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt của Meta đến tiềm năng phát triển công nghệ và sự hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, Innovate Viet Nam 2024 cũng đánh dấu mốc 5 năm thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC). Đây là một cột mốc quan trọng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Việt Nam và việc Nick Clegg sẽ là một trong những diễn giả nổi bật tại lễ kỷ niệm này được kỳ vọng góp phần vào việc thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp và tổ chức công nghệ toàn cầu.
Việt Nam cần 500.000 nhân lực IT, lương lên đến 3.000 USD/tháng
Nhu cầu tuyển dụng nhân sự công nghệ cao tăng mạnh, kéo theo mức lương trung bình của lập trình viên tại Việt Nam năm 2024 từ 1.100 - 3.000 USD/tháng.Theo "Báo cáo Thị trường IT Việt Nam 2024-2025 "Vietnam IT & Tech Talent Landscape" mới công bố, thị trường việc làm công nghệ thông tin (IT) tại Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây và an ninh mạng. Sự phát triển này không chỉ mang lại nhiều cơ hội việc làm mà còn tạo ra những thách thức lớn đối với doanh nghiệp. Một trong số đó là sự thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng chuyên sâu.
Theo số liệu từ Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam cần bổ sung ít nhất 500.000 lao động công nghệ từ nay đến năm 2025 để đáp ứng nhu cầu Theo số liệu từ Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam cần bổ sung ít nhất 500.000 lao động công nghệ từ nay đến năm 2025. Điều này buộc các doanh nghiệp phải đầu tư mạnh mẽ vào các chương trình đào tạo nâng cao (upskilling) và tái đào tạo (reskilling) cho nhân viên.
Nhu cầu nhân sự IT và lương cao ngất ngưởngBáo cáo chỉ ra nhu cầu tuyển dụng nhân sự công nghệ cao tăng mạnh, kéo theo mức lương trung bình của lập trình viên tại Việt Nam năm 2024 từ 1.100 - 3.000 USD mỗi tháng, tùy thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm. Đặc biệt, các vị trí như kỹ sư AI và chuyên gia bảo mật thông tin có mức lương vượt xa con số trung bình nhờ sự khan hiếm nhân lực và tầm quan trọng của những vai trò này trong doanh nghiệp.  Mức lương cho lao động ngành IT. Ảnh: TopDev Việt Nam được đánh giá là một quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ nhờ sự hỗ trợ từ Chính phủ và các nhà đầu tư quốc tế. Hiện Việt Nam đứng thứ 3 tại Đông Nam Á về số lượng dự án khởi nghiệp được đầu tư. Trong năm 2023, tổng vốn đầu tư vào các startup công nghệ đạt 529 triệu USD, tập trung chủ yếu vào giáo dục, y tế và thương mại điện tử – các lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng lớn.
Việt Nam đang trải qua một làn sóng chuyển đổi số mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực quan trọng như tài chính, ngân hàng và dịch vụ công. Các doanh nghiệp đang tích hợp nhiều công nghệ tiên tiến như AI, điện toán đám mây và phân tích dữ liệu vào quá trình vận hành. Hiện tại, nền kinh tế số của Việt Nam chiếm khoảng 16,5% GDP và dự kiến sẽ tăng trưởng 20%/năm. Theo Báo cáo eConomy SEA 2023 của Google, giá trị thị trường số Việt Nam dự kiến tăng từ 30 tỉ USD năm 2023 lên 43 tỉ USD vào năm 2025, khẳng định tiềm năng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số. Việt Nam cũng đang nhanh chóng ứng dụng các công nghệ mới như 5G và Internet vạn vật (IoT), giúp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ và dòng vốn quốc tế, Việt Nam đang trên đà trở thành một trung tâm công nghệ hàng đầu khu vực ASEAN. Thách thức và cơ hội
Dù thị trường IT Việt Nam có tiềm năng phát triển lớn nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Trong đó, hạ tầng công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh mạng 5G, các trung tâm dữ liệu và dịch vụ đám mây đang trở thành nhu cầu thiết yếu. Việc nâng cấp cơ sở hạ tầng là điều kiện cần thiết để tiếp tục phát triển bền vững. Doanh nghiệp đang đẩy mạnh các chương trình đào tạo nội bộ để nâng cao kỹ năng cho đội ngũ nhân viên Ngoài ra, an ninh mạng và bảo mật dữ liệu cũng đặt ra áp lực lớn cho doanh nghiệp IT, nhất là khi các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi. Để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp cần tuân thủ các tiêu chuẩn an ninh mạng nghiêm ngặt và cải thiện nguồn nhân lực chuyên sâu về bảo mật dữ liệu. Theo báo cáo, yêu cầu tuyển dụng các vị trí có kinh nghiệm trong các lĩnh vực phức tạp như an ninh mạng và AI đang vượt xa nguồn cung. Điều này tạo áp lực lên doanh nghiệp trong việc thu hút và giữ chân nhân tài, đồng thời đẩy mạnh các chương trình đào tạo nội bộ để nâng cao kỹ năng cho đội ngũ nhân viên. Ông Park JongHo, CEO của TopDev, nhận định: "Báo cáo lần này không chỉ là phân tích thị trường mà còn là chiếc la bàn giúp doanh nghiệp và nhà đầu tư định hướng khai phá tiềm năng của ngành IT tại Việt Nam. Chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ tiếp tục vươn lên, trở thành trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo hàng đầu trong khu vực". Theo: Nguồn lao động
Hé lộ về công ty ít người biết nhưng không hề kém cạnh Nvidia: Vốn hoá tăng hơn 200% trong 2 năm, hàng loạt ông lớn công nghệ phải phụ thuộc, âm thầm 'càn quét' ngành hot nhất nhì thế giới
Hiện tại, Broadcom là công ty có giá trị lớn thứ 12 thế giới và là nhà sản sản xuất chip lớn thứ 3, chỉ sau Nvidia và TSMC.Economist nhận định, ít có công ty nào ghi nhận vốn hoá tăng mạnh mà không được nhắc đến nhiều như Broadcom trong những năm gần đây. Kể từ năm 2022, vốn hoá của hãng sản xuất chip này tăng từ khoảng 230 tỷ USD lên hơn 700 tỷ USD vào đầu tháng 9. Hiện tại, Broadcom là công ty có giá trị lớn thứ 12 thế giới và là nhà sản sản xuất chip lớn thứ 3, chỉ sau Nvidia và TSMC. Giống Nvidia và TSMC, Broadcom được hưởng lợi lớn từ “cơn sốt” AI. Những gã khổng lồ công nghệ như Google, Amazon và Microsoft phụ thuộc rất nhiều vào bộ xử lý của Nvidia để vận hành các mô hình AI. Song, việc phát triển chip riêng của họ lại “nhờ” vào Broadcom. Broadcom đã phát triển một phiên bản chip AI mới phát hành của Google. OpenAI, nhà phát triển của ChatGPT, được cho là đang tìm hiểu về việc thiết kế một chip đặt riêng với sự hỗ trợ của Broadcom
Ngoài ra, công ty chip của Mỹ này cũng được hưởng lợi từ vị thế là một trong những nhà cung cấp chip mạng hàng đầu cho các trung tâm dữ liệu, sở hữu VMware - công ty sản xuất phần mềm đám mây. Nhu cầu đối với cả 2 sản phẩm đều đang tăng vọt trong bối cảnh hiện tại. Theo đó, doanh thu và lợi nhuận của hãng chip này tăng vọt. Tuần trước, Broadcom công bố báo cáo tài chính, doanh thu của công ty tăng 47% và lợi nhuận hoạt động tăng 44% so với cùng kỳ năm trước trong quý kết thúc vào tháng 8. Công ty dự báo doanh số tăng 51% trong quý tới. Song, dù kết quả kinh doanh cực kỳ khả quan nhưng vẫn chưa đủ đến trấn an nhà đầu tư về việc đợt bùng nổ AI khó kéo dài. Cổ phiếu Broadcom giảm 10% ngay sau ngày công bố báo cáo tài chính. Một điều nhà đầu tư đã bỏ qua đó là Broadcom trỗi dậy còn trước cả khi ChatGPT ra đời. Trong thập kỷ trước khi chatbot trở thành xu hướng, giá trị của Broadcom đã tăng gấp 20 lần. Không chỉ nhờ cơn sốt công nghệ, mà các thương vụ thâu tóm đã thúc đẩy đà tăng trưởng mạnh mẽ của công ty này. Kể từ khi thành lập vào năm 2005, công ty đã chi hơn 140 tỷ USD cho các thương vụ mua lại. Broadcom không chỉ là 1 công ty công nghệ mà còn là 1 công ty chuyên đi thâu tóm. Broadcom bắt đầu hoạt động từ năm 2005, với tên gọi là Avago, một công ty tách ra từ Agilent Technologies - hãng sản xuất linh kiện điện tử. Năm 2015, Avago mua lại một công ty bán dẫn nhỏ hơn là Broadcom với 37 tỷ USD và đổi tên.
Vốn hoá của Broadcom qua các năm cùng những thương vụ thâu tóm lớn. Không lâu sau, không còn các nhà sản xuất chip lớn nào mà Broadcom có thể mua lại mà không vi phạm luật chống độc quyền. Nỗ lực thâu tóm Qualcomm, một hãng sản xuất chip cho smartphone, với 130 tỷ USD đã bị cựu Tổng thống Trump phản đối vào năm 2018, vì lý do lo ngại an ninh quốc gia. Do đó, Broadcom chuyển sang lĩnh vực phần mềm. Sau khi thâu tóm một nhà sản xuất phầm mềm cho máy tính lớn và công ty thuộc lĩnh vực an ninh mạng, Broadcom đã thực hiện thương vụ thâu tóm lớn chưa từng có vào năm ngoái, chi 69 tỷ USD để mua lại VMware. Hiện tại, Broadcom sở hữu một loạt các công ty “không liên quan đến nhau lắm”, vì phương châm là “kết nối mọi thứ”. Tuy nhiên, Broadcom áp dụng 1 lối tư duy khi thực hiện các thương vụ. Khi lựa chọn mục tiêu, họ tìm kiếm các công ty có sản phẩm tốt, thị phần lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả. Sau khi thâu tóm, Broadcom áp dụng chiến lược cắt giảm chi phí bằng cách sa thải nhóm quản lý và chỉ tập trung vào một số sản phẩm. Tháng 11/2023, ngay sau khi mua lại VMware, Broadcom đã sa thải 2.800 nhân sự và tăng giá sản phẩm. Tuy nhiên, không phải Broadcom chỉ tập trung hoàn toàn vào lợi nhuận ngắn hạn. Các bộ phận sale và marketing có thể bị cắt giảm sau khi thâu tóm, nhưng khoản đầu tư vào R&D lại tăng lên, theo Dan Nishball đến từ công ty tư vấn SemiAnalysis. Ngoài ra, kỹ sư chiếm gần 3/4 nhân sự của Broadcom. Broadcom vẫn có thể gặp nhiều khó khăn phía trước. Dù công ty ít phụ thuộc vào AI hơn Nvidia, nhưng việc không thúc đẩy nhanh chi tiêu cho công nghệ này sẽ là rào cản lớn. Các khách hàng của họ bao gồm Apple và Google, cũng đang đẩy mạnh việc phát triển chip riêng. Điều này có thể làm giảm lợi nhuận của mảng silicon đặt hàng riêng của Broadcom. Theo Mark Lipacis đến từ ngân hàng đầu tư Evercore, thiết kế chip AI là một mảng rất khó, khách hàng của Broadcom sẽ mất thời gian để phát triển những bước cần thiết. Dẫu vậy, những đối thủ khác cũng có thể sẽ xuất hiện. Economist cho biết có tin đồn rằng Nvidia có khả năng sớm bắt đầu đẩy mạnh mạng chip đặt hàng riêng. Chưa dừng ở đó, mối lo ngại lớn hơn là vấn đề kế nhiệm của CEO Hock Tan, người đã ngoài 70 tuổi và điều hành công ty từ năm 2006. Năm ngoái, ông là CEO được trả lương cao nhất trong số các công ty có tỏng S&P 500. Hiện tại, Tan cho biết ông có kế hoạch lãnh đạo trong ít nhất 4 năm tới. Tham khảo Economist An Chi Nhịp sống thị trường
TPHCM lập quỹ 5 triệu USD đào tạo 40 nghìn kỹ sư thiết kế vi mạch
TPHCM đặt tham vọng đến 2030, đào tạo 40 nghìn kỹ sư nhằm phát triển ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn có đủ năng lực tham gia vào các khâu có giá trị gia tăng cao, trong chuỗi giá trị ngành vi mạch bán dẫn toàn cầu.UBND TPHCM vừa có quyết định phê duyệt “Chương trình Phát triển công nghiệp vi mạch tại Khu Công nghệ cao giai đoạn 2025 – 2030”. Kế hoạch này nhằm đưa ngành công nghiệp vi mạch trở thành động lực tăng trưởng mới của kinh tế thành phố, dẫn dắt các ngành công nghiệp khác, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng kinh tế tri thức, ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng của công nghiệp vi mạch khi tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Một phần Khu Công nghệ cao TPHCM nhìn từ trên cao. Ảnh: CTV Cụ thể hơn, đến năm 2030, biến Khu Công nghệ cao trở thành một trung tâm nghiên cứu, phát triển ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn của quốc gia, có hệ sinh thái vi mạch bán dẫn mạnh. Có hạ tầng khoa học công nghệ, mô hình quản trị hiện đại theo thông lệ của thế giới; là nơi thu hút và đào tạo nguồn nhân lực thiết kế vi mạch bán dẫn đạt trình độ quốc tế; có không gian phát triển các dự án đầu tư có sức lan tỏa công nghệ, kết nối vào hệ sinh thái vi mạch bán dẫn thế giới. Tiến tới hình thành Trung tâm xuất sắc về vi mạch bán dẫn, cảm biến – MEMS; Viện Công nghệ tiên tiến và Đổi mới sáng tạo hoạt động hiệu quả, tạo ra một nền tảng chung để khai thác và triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc hình thành nên các sản phẩm thương mại có hàm lượng khoa học cao. Nghiên cứu thiết kế và chế tạo thành công loại linh kiện điện tử công suất như là MOSFET hoặc Transistor ứng dụng trong lĩnh vực điều khiển công suất. Từ đó, xây dựng được quy trình và các thông số chế tạo chuẩn làm cơ sở thiết kế và chế tạo các linh kiện vi mạch bán dẫn phức tạp sau này. Bên cạnh đó, thành phố sẽ nâng cấp Vườn ươm Doanh nghiệp Công nghệ cao thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo, thúc đẩy hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp cho các doanh nghiệp nghiên cứu thiết kế lõi vi mạch mềm và phát triển vi mạch Việt Nam. Trung tâm Đổi mới sáng tạo dự kiến thu hút 60 dự án ươm tạo, tốt nghiệp cho 5 doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp điện tử - vi mạch. Trong đó, tập trung vào vi mạch trí tuệ nhân tạo, vi mạch xử lý dữ liệu thông minh, vi mạch truyền thông bảo mật phục vụ cho chuyển đổi số và xây dựng đô thị thông minh, sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm chủ lực có sử dụng lõi vi mạch mềm hoặc các vi mạch được thiết kế trong nước. Đồng thời TPHCM đặt mục tiêu phát triển ít nhất 60 sở hữu trí tuệ/lõi IP hoặc có thể xuất khẩu các sản phẩm chủ lực của Việt Nam ra thế giới; phát triển được ít nhất 2 doanh nghiệp lĩnh vực thiết kế vi mạch và phát triển sản phẩm trên các vi mạch Việt có khả năng cạnh tranh với các công ty thiết kế nước ngoài; thu hút ít nhất 20 dự án, trong đó có ít nhất 1 tập đoàn công nghệ cao tên tuổi lớn của thế giới. Phấn đấu thu hút ít nhất 1 nhà đầu tư chiến lược trong ngành vi mạch bán dẫn, tập trung vào công đoạn có giá trị gia tăng cao, kết nối đến hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn toàn cầu, doanh nghiệp nước ngoài có đầu tư mạnh cho hoạt động nghiên cứu phát triển, liên kết với doanh nghiệp nội địa, các cơ sở đào tạo, ươm tạo doanh nghiệp vi mạch tại Khu Công nghệ cao. Đào tạo 40 nghìn kỹ sư vi mạch Để đạt được mục tiêu như kế hoạch nói trên, ngoài hoàn thiện các chính sách, TPHCM nhận định nguồn nhân lực sẽ đóng vai trò cho việc thành hay bại của chương trình. Do đó, lãnh đạo TPHCM giao các sở, ngành liên quan nghiên cứu thành lập Quỹ Phát triển nguồn nhân lực thiết kế vi mạch quy mô 5 triệu USD. Đây là nguồn quỹ nhằm đào tạo nâng cao kỹ năng cho khoảng 40.000 kỹ sư từ nay đến năm 2030 (tương đương khoảng 6.000 kỹ sư/năm). Nghiên cứu và đề xuất mô hình, cơ chế hợp tác đột phá, hiệu quả cho các đơn vị trực thuộc Ban Quản lý Khu Công nghệ cao với các Trường đại học, Viện nghiên cứu, doanh nghiệp, các Trung tâm vi mạch bán dẫn quốc gia để nâng cao nguồn lực, năng lực trong công tác đào tạo, ươm tạo. Đặc biệt là chia sẻ hạ tầng khoa học công nghệ, năng lực của đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ quản lý tham gia các chương trình, dự án phát triển vi mạch tại Khu Công nghệ cao. Hoàn thiện mô hình tổ chức Trung tâm đào tạo vi mạch bán dẫn phù hợp theo tiêu chuẩn quốc tế. Tổ chức các khóa đào tạo đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với yêu cầu sản xuất công nghiệp; trong đó đào tạo chuyên sâu cho 120 giảng viên, nhà nghiên cứu; đào tạo ngắn hạn, đào tạo chuyển tiếp, đào tạo nâng cao cho ít nhất 1.200 học viên; kết nối cộng tác với 2-3 chuyên gia đầu ngành hoặc chuyên gia quốc tế mỗi năm để xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo cho Trung tâm đào tạo Khu Công nghệ cao. Theo : https://vietnamnet.vn/
Mặt trận mới không ngờ trong cuộc chiến chip
Đóng gói mạch tích hợp (IC) tiên tiến là mặt trận cạnh tranh mới hấp dẫn giữa các nhà sản xuất bộ xử lý AI và các mạch tích hợp (IC). Đây cũng là mặt trận tiếp theo trong nỗ lực của chính phủ Mỹ nhằm giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào các nhà cung cấp nước ngoài và làm chậm tiến trình công nghệ của Trung Quốc. Tuy nhiên, theo Asia Times, không giống như chế tạo các tấm wafer IC "đầu cuối", lệnh trừng phạt của Mỹ hạn chế nghiêm trọng đến sự tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực lắp ráp, đóng gói và thử nghiệm dù Trung Quốc đã có sự hiện diện lớn trên thị trường và công nghệ tiên tiến và nước này tương đối miễn nhiễm với các lệnh cấm vận công nghệ.  'Mặt trận' mới không ngờ trong cuộc chiến chip. (Ảnh minh họa) TSMC của Đài Loan, cho đến nay là nhà máy đúc IC lớn nhất và tiên tiến nhất về mặt công nghệ, đang nhanh chóng mở rộng năng lực đóng gói sản phẩm Chip-on-Wafer-on-Substrate (CoWoS) của mình. Đây là công nghệ đóng gói dựa trên mạch tích hợp hai phẩy năm chiều (IC 2,5D) xuyên qua silicon do TSMC thiết kế cho các ứng dụng hiệu suất cao. Điều này sẽ loại bỏ tình trạng tắc nghẽn nguồn cung các bộ xử lý AI mới nhất từ Nvidia, AMD và Intel, được chế tạo tại các nút quy trình dưới 5 nanomet. Huawei, cho đến nay vẫn chưa thể chuyển xuống dưới 5nm do lệnh cấm bán hệ thống sản xuất chip quang khắc EUV của ASML cho Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã sử dụng công nghệ thiết kế IC và đóng gói của riêng mình để vẫn đạt được yêu cầu về hiệu suất chip. Cụ thể, bộ xử lý Ascend 910C mới của Huawei, có thể được giao hàng thương mại trong vòng hai tháng tới, được cho là có hiệu suất vượt trội hơn H20 đã bị hạ cấp của Nvidia. Ngay cả khi Huawei đang phóng đại khả năng của mình, thì có vẻ như họ đã đạt được đủ tiến bộ để khiến Nvidia, AMD và Intel có nguy cơ mất vị trí cung cấp bộ xử lý AI của họ tại thị trường Trung Quốc. Huawei và các nhà cung cấp Trung Quốc khác có thể sẽ có thị trường lớn nhất thế giới cho các thiết bị này mà không có sự cạnh tranh từ nước ngoài. Alibaba, Baidu, ByteDance, China Mobile, Tencent và các khách hàng Trung Quốc khác muốn mua bộ vi xử lý tiên tiến hơn do Mỹ thiết kế giờ đây sẽ thấy dễ dàng hơn và ít rủi ro hơn khi sử dụng các thiết bị được thiết kế và sản xuất tại Trung Quốc. Trong khi đó, dữ liệu từ các nguồn tin trong ngành được các trang web tin tức công nghệ tại Đài Loan và những nơi khác đưa tin cho thấy sản lượng IC hàng tháng sử dụng công nghệ CoWoS của TSMC sẽ tăng gấp đôi lên 40.000 đơn vị vào cuối năm nay, tăng 50% lên 60.000 vào năm 2025 và đạt 80.000 vào cuối năm 2026. Theo Cadence Design Systems, một công ty tự động hóa thiết kế điện tử hàng đầu, CoWoS "đặc biệt phù hợp với các bộ tăng tốc trí tuệ nhân tạo (AI), nơi nhiều loại chip cần hoạt động hiệu quả cùng nhau" - bao gồm bộ nhớ băng thông cao (HBM). Cadence giải thích rằng "Đóng gói 2.5D... là bước trung gian giữa đóng gói 2D truyền thống và đóng gói 3D hoàn chỉnh. Trong đóng gói 2.5D, nhiều khuôn bán dẫn, thường từ các công nghệ quy trình khác nhau, được đặt cạnh nhau trên một bộ xen kẽ silicon. Bộ xen kẽ hoạt động như một cầu nối, kết nối các khuôn riêng lẻ và cung cấp giao diện truyền thông tốc độ cao". Điều này “cho phép tích hợp nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như bộ xử lý, bộ nhớ và cảm biến, trên một gói duy nhất. Khoảng cách gần này giúp giảm chiều dài kết nối, dẫn đến cải thiện tính toàn vẹn của tín hiệu và độ trễ thấp hơn”. Ngoài ra, phương pháp còn giảm cả kích thước của gói và mức tiêu thụ điện năng, đồng thời tạo điều kiện tản nhiệt. Khi tăng cường năng lực sản xuất CoWoS, TSMC sẽ có thể bắt kịp với lượng đơn đặt hàng tồn đọng cho bộ xử lý H100 của Nvidia và sẵn sàng tung ra bộ xử lý Blackwell B200 mới, dự kiến sẽ bắt đầu vào đầu năm sau. Trung Quốc có ngành công nghiệp đóng gói IC rất lớn và tiên tiến. Hai trong số năm công ty lắp ráp và thử nghiệm chất bán dẫn gia công ngoài (OSAT) hàng đầu thế giới - JCET, đứng thứ ba và Tongfu Microelectronics, đứng thứ tư - là của Trung Quốc, trong khi Beijing ESWIN và các công ty nhỏ hơn khác cũng đang phát triển công nghệ chiplet. Tongfu là công ty duy nhất cung cấp dịch vụ OSAT cho AMD trong nhiều năm và vận hành các nhà máy liên doanh với AMD tại Tô Châu và Penang. Chính phủ Trung Quốc coi việc đóng gói IC tiên tiến nói chung và chiplet nói riêng là chìa khóa để vượt qua lệnh trừng phạt của Mỹ và giúp ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc vừa có khả năng cạnh tranh vừa độc lập. Chính phủ Mỹ, cũng coi việc đóng gói IC tiên tiến là rất quan trọng, có kế hoạch trợ cấp cho việc xây dựng cơ sở OSAT đầu tiên của Amkor tại Mỹ. Amkor, công ty OSAT lớn thứ hai thế giới, có trụ sở tại Arizona. Theo vtcnews.vn
TSMC công bố tiến trình 1.6nm, iPhone 18 sẽ là thiết bị đầu tiên được hưởng lợi?
Những con chip đầu tiên dựa trên tiến trình này sẽ xuất hiện trong năm 2026.Mới đây, TSMC đã trình làng một loạt công nghệ mới, bao gồm quy trình "A16" với tiến trình 1.6nm. Công nghệ mới này cải thiện đáng kể mật độ logic và hiệu năng của chip, hứa hẹn những nâng cấp vượt bậc cho các sản phẩm điện toán hiệu năng cao và trung tâm dữ liệu. Quy trình A16, dự kiến được TSMC đưa vào sản xuất thương mại từ năm 2026, tích hợp các bóng bán dẫn nanosheet cải tiến cùng giải pháp đường ray năng lượng mặt sau mới. Những cải tiến này được kỳ vọng sẽ mang lại tốc độ tăng 8-10% và giảm 15-20% điện năng tiêu thụ so với quy trình N2P của TSMC. Ngoài ra, TSMC còn công bố việc triển khai công nghệ Hệ thống trên đế wafer (System-on-Wafer, hay SoW), tích hợp nhiều die trên một đế wafer duy nhất để tăng sức mạnh tính toán đồng thời chiếm ít diện tích hơn. Sản phẩm SoW đầu tiên của TSMC, hiện đang được sản xuất, dựa trên công nghệ Integrated Fan-Out (InFO). TSMC cũng đang đạt được tiến bộ trong việc sản xuất chip 2nm và 1.4nm. Quy trình "N2" 2nm của hãng được lên kế hoạch sản xuất thử nghiệm vào nửa cuối năm 2024 và sản xuất hàng loạt vào cuối năm 2025, tiếp theo là quy trình "N2P" cải tiến vào cuối năm 2026. Sản xuất thử nghiệm tiến trình 2nm sẽ bắt đầu vào nửa cuối năm 2024, với sản xuất quy mô nhỏ tăng dần vào quý 2 năm 2025. Vào năm 2027, các cơ sở sản xuất tại Đài Loan sẽ bắt đầu chuyển hướng sang sản xuất chip "A14" 1.4nm. Mỗi thế hệ quy trình mới của TSMC đều vượt trội so với thế hệ trước về mật độ bóng bán dẫn, hiệu năng và hiệu suất. Cuối năm ngoái, có thông tin cho rằng TSMC đã trình diễn chip 2nm cho Apple trước khi dự kiến giới thiệu chúng vào năm 2025. Theo truyền thống, Apple là một trong những công ty đầu tiên áp dụng các công nghệ chế tạo chip tiên tiến của TSMC. Ví dụ, Apple là công ty đầu tiên sử dụng quy trình 3nm của TSMC với chip A17 Pro trên iPhone 15 Pro và iPhone 15 Pro Max, và Apple có khả năng sẽ tiếp tục đi đầu trong việc sử dụng các quy trình sản xuất chip sắp tới. Các thiết kế chip tiên tiến nhất của Apple trước đây thường xuất hiện trên iPhone trước khi được trang bị trên các dòng iPad và Mac. Chip A18 sắp tới của Apple dành cho dòng iPhone 16 dự kiến sẽ dựa trên N3E (3nm cải tiến), trong khi A19 cho các mẫu iPhone 17 vào năm 2025 dự kiến sẽ là chip 2nm đầu tiên của Apple. Nếu lộ trình của TSMC không đổi, iPhone 18 có thể sẽ là dòng máy đầu tiên sử dụng chip dựa trên quy trình 1.6nm của TSMC. Theo Đời sống Pháp luật
Từ viết code đến giám sát: Một công cụ của Microsoft sẽ 'giáng cấp' dân lập trình xuống vai trò 'quản đốc', phải kiểm tra xem AI đang làm gì mỗi ngày
Nghiên cứu của Microsoft cũng chỉ ra cách AutoDev có thể làm thay đổi bộ mặt ngành phát triển phần mềm, bằng cách phân công lại trách nhiệm trong công việc. Ngành phát triển phần mềm, lựa chọn nghề nghiệp phổ biến trong vài thập kỷ qua, đang dần thay đổi với sự trỗi dậy của Trí tuệ Nhân tạo (AI). Theo đó, ngành nghề này đang đối diện vói sức ép 'bị cướp việc' từ chính AI, trong bối cảnh AI không chỉ thực hiện phần lớn các công việc mà còn giảm bớt sự phụ thuộc vào nhân lực lập trình. Microsoft AutoDev, một sản phẩm mới của Microsoft, chính là ví dụ minh họa rõ nét cho bước tiến này. AutoDev là một phần mềm tự động dựa trên nền tảng AI, khai thác triệt để các khả năng của AI để tối ưu hóa quá trình phát triển phần mềm. Theo tài liệu nghiên cứu của Microsoft về AutoDev, AI Agent (Tác nhân AI) của công cụ này sẽ là 'nhân tố chính'. Theo định nghĩa, AI Agent là một hệ thống máy tính được thiết kế để đưa ra quyết định, chọn công cụ và thực hiện hành động để đạt được mục tiêu cụ thể, thường là mục tiêu hoặc bộ mục tiêu được xác định trước. Agent hoạt động độc lập, hiếm khi cần sự can thiệp của con người vào hoạt động của nó. "AutoDev cho phép người dùng xác định các mục tiêu kỹ thuật phần mềm phức tạp, sau đó giao cho các tác nhân AI (AI Agent) tự động của AutoDev để thực hiện. Các tác nhân AI này có khả năng thực hiện đa dạng các thao tác trên cơ sở code, bao gồm chỉnh sửa tệp, truy xuất, xây dựng, thực thi, kiểm thử và các hoạt động git. Chúng còn truy cập được vào tệp tin, đầu ra của biên dịch, nhật ký xây dựng và kiểm thử, công cụ phân tích tĩnh và nhiều hơn nữa. Điều này giúp các tác nhân AI hoàn thành các nhiệm vụ một cách tự động, dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về bối cảnh cần thiết.", tài liệu của Microsoft mô tả. 
Các kết quả thử nghiệm đầu tiên cho AutoDev rất khả quan. Khi thử nghiệm trên bộ dữ liệu HumanEval, AutoDev đã đạt tỷ lệ thành công 91.5% trong việc tạo ra các dòng code và 87.8% trong sinh kiểm thử. Nghiên cứu của Microsoft cũng chỉ ra cách AutoDev có thể làm thay đổi bộ mặt ngành phát triển phần mềm, bằng cách phân công lại trách nhiệm như sau: "Vai trò của nhà phát triển trong khuôn khổ AutoDev đã chuyển từ lập trình thủ công và xác nhận các gợi ý từ AI sang giám sát và điều phối sự hợp tác giữa nhiều tác nhân AI trên các nhiệm vụ cụ thể, với khả năng cung cấp phản hồi khi cần. Nhà phát triển giờ đây có thể theo dõi tiến trình của AutoDev thông qua việc quan sát cuộc đối thoại liên tục, được dùng để giao tiếp giữa các tác nhân và kho lưu trữ thông tin." Với những tiến bộ này, AutoDev không chỉ nâng cao hiệu quả phát triển phần mềm mà còn mở ra một kỷ nguyên mới trong ngành công nghệ thông tin, nơi mà AI không chỉ hỗ trợ mà còn có thể dẫn dắt quá trình phát triển. "Dân dev" nghĩ gì về công cụ AutoDev của Microsoft? Các nhà phát triển đã có những phản ứng thú vị và không kém phần hài hước về Microsoft AutoDev, một công cụ mới mà Microsoft giới thiệu nhằm tự động hóa quá trình phát triển phần mềm thông qua trí tuệ nhân tạo (AI). Một số ý kiến cho rằng: "Tôi có thể tưởng tượng AutoDev kết hợp với các công cụ đo lường chất lượng và hiệu suất mã hiện có. Nó chưa hoàn hảo, nhưng lại cho thấy tiềm năng của những gì sắp tới, dù có vẻ như chưa sẵn sàng để được áp dụng rộng rãi." Một nhà phát triển khác bày tỏ: "Thật dễ dàng nhìn thấy lãnh đạo doanh nghiệp sẽ rất ấn tượng và có thể sẽ cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, nhưng rốt cuộc có thể họ sẽ không nhận được sản phẩm nào hoàn chỉnh như mong đợi." Còn có ý kiến hài hước rằng: "Hệ thống này có thể tự động....hủy bỏ bản thân sau khi gặp phải các quản lý sản phẩm (Product Manager - PM), những người miệng thì đòi một nút màu xanh lá cây nhưng trong đầu lại thực sự lại muốn một cái nút màu tím." Và một nhận xét cuối cùng: "Hy vọng AI sẽ phát triển một phiên bản hệ điều hành Windows tốt hơn và phát hành nó miễn phí cho mọi người." Mặc dù đã có nhiều suy đoán, nhưng việc AutoDev xuất hiện sớm đến vậy là điều không nhiều người ngờ tới. Chúng ta cần chờ xem AutoDev sẽ hoạt động như thế nào trong thời gian tới và liệu nó có thật sự biến các nhà phát triển phần mềm trở thành chỉ những người giám sát công việc hay không. 
Được biết thêm, không chỉ riêng Microsoft, các công ty công nghệ lớn khác như Google cũng đã không ngần ngại tham gia vào cuộc đua này. Gần đây, Google đã giới thiệu Gemini Code Assist và CodeGemma, với Gemini Code Assist hỗ trợ lập trình đa ngôn ngữ, trong khi CodeGemma chạy trực tiếp trên thiết bị của người dùng. Bản thân những nhân vật nổi tiếng tại thung lũng Sllicon cũng có quan điểm cho rằng nghề lập trình sẽ dần do AI đảm nhiệm, đơn cử như CEO Nvidia Jensen Huang. Tại hội thảo GTC 2024 diễn ra tháng 3/2024 tại California, ông Huang chia sẻ quan điểm. "Tôi nghĩ mọi người có thể học mọi loại kỹ năng", ông nói, so sánh việc học viết code cũng tương tự các kỹ năng như tung hứng, chơi piano hay học tính toán. "Lập trình không phải là điều cần để bạn trở thành người thành công. Nhưng nếu ai đó muốn học, hãy học vì chúng tôi đang tuyển lập trình viên". Theo người sáng lập Nvidia, kỹ sư muốn thành công không nhất thiết phải trở thành một lập trình viên C++, thay vào đó chỉ cần trở thành kỹ sư ra lệnh. Tại sự kiện hồi tháng 2 ở Dubai, Jensen Huang cũng từng gây sốc khi nói người trẻ không nên học lập trình. Theo ông, con người đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng AI và lập trình không còn là kỹ năng quan trọng nữa. Ông cho rằng trí tuệ nhân tạo đang đảm nhận công việc này ngày một tốt, do đó con người nên tập trung vào các chuyên môn có giá trị hơn như sinh học, giáo dục, sản xuất hoặc nông nghiệp.
Trung Quốc giáng đòn chí mạng vào Intel, AMD: buộc nhà mạng viễn thông phải loại bỏ chip nước ngoài, dùng chip nội địa
Hiện tại thị trường Trung Quốc đóng góp đến 27% và 15% tổng doanh thu cho các hãng chip Intel và AMD của Mỹ. Trong động thái mới nhất của mình, chính quyền Trung Quốc đã yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông dần chấm dứt sử dụng chip nước ngoài vào năm 2027, ảnh hưởng trực tiếp đến hai nhà sản xuất chip lớn của Mỹ là Intel và Advanced Micro Devices (AMD). Động thái này được xem là một phần trong nỗ lực rộng lớn của Trung Quốc nhằm giảm sự phụ thuộc vào công nghệ do phương Tây sản xuất. Quốc gia này đang chuyển sang sử dụng các lựa chọn trong nước trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung và Mỹ đang diễn ra. Sự phát triển này diễn ra trong bối cảnh Mỹ thắt chặt các hạn chế về xuất khẩu công nghệ cao đến các quốc gia đối thủ. Theo báo cáo của WSJ, Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin Trung Quốc đã ra lệnh cho các nhà khai thác di động thuộc sở hữu nhà nước như China Mobile và China Telecom kiểm tra mạng lưới của họ để xác định các bán dẫn không phải do Trung Quốc sản xuất và lập kế hoạch thời gian thay thế chúng. Trước đó vào tháng Ba, nhiều báo cáo cho biết, chính phủ Trung Quốc đã ban hành hướng dẫn loại bỏ Intel và AMD khỏi máy tính cá nhân và máy chủ sử dụng trong chính phủ. Đây sẽ là đòn đánh nặng nề giáng vào Intel. Báo cáo kinh doanh của công ty cho biết, trong năm 2023, Trung Quốc là thị trường lớn nhất của Intel, khi công ty chip khổng lồ của Mỹ thu về hơn 27% tổng doanh thu từ quốc gia này. Năm ngoái, Trung Quốc cũng đóng góp 15% doanh số bán hàng của AMD. Các nhà sản xuất chip này phụ thuộc nặng nề vào nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cho doanh số bán hàng của họ. WSJ cũng phát hiện rằng những mua sắm gần đây của các nhà khai thác viễn thông Trung Quốc rõ ràng cho thấy họ đang ngày càng chuyển sang các lựa chọn trong nước. Điều này được thực hiện một phần nhờ chất lượng và sự ổn định được cải thiện của các sản phẩm chip nội địa. Năm 2022, cơ quan quản lý tài sản nhà nước của Trung Quốc cũng đã chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước thay thế các hệ thống phần mềm văn phòng bằng sản phẩm trong nước vào năm 2027. Cuộc đối đầu thương mại và công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang khiến các hãng chip Mỹ rơi vào tình thế khó chồng khó. Trước đó, chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm hạn chế nguồn cung chip tiên tiến cho các công ty Trung Quốc, do đó không chấp thuận chip AI mà AMD thiết kế riêng cho thị trường Trung Quốc. Công ty này giờ đây sẽ phải nộp đơn xin giấy phép xuất khẩu. Tuy nhiên, chính quyền cựu tổng thống Trump lại cho phép đối thủ Intel xuất khẩu CPU cho Huawei, dù công ty này bị đưa vào danh sách hạn chế thương mại vào năm 2019 do vi phạm các lệnh trừng phạt liên quan đến Iran. Mới đây hãng Huawei đã ra mắt chiếc laptop tích hợp AI đầu tiên của mình, MateBook X Pro, được trang bị bộ xử lý Core Ultra 9 mới của Intel. Vào tháng 10 năm 2022, Mỹ đã áp dụng các quy tắc nhằm hạn chế Trung Quốc truy cập vào các chip Mỹ cao cấp, đặc biệt là những chip quan trọng đối với công nghệ trí tuệ nhân tạo. Cuối năm ngoái, Mỹ đã thông báo các hạn chế mới để ngăn chặn việc bán thêm chip AI cho Trung Quốc, nhằm đóng các lỗ hổng cảm thấy trong lệnh trước, theo CNBC. Một số nhà lập pháp Mỹ đã yêu cầu chính quyền Biden thu hồi giấy phép đặc biệt của Intel. Tuy nhiên, họ đã đồng ý tiếp tục nó khi giấy phép sẽ hết hạn vào cuối năm nay. Theo Đời sống Pháp luật
Sự điên rồ của Huawei: Xây khuôn viên chip rộng bằng 224 sân bóng đá, đủ sức chứa 35.000 công nhân, áp văn hóa 007 làm từ nửa đêm đến nửa đêm, không ngày nghỉ
Huawei Technologies đang cho xây dựng một trung tâm nghiên cứu và phát triển thiết bị bán dẫn khổng lồ ở Thượng Hải, theo Nikkei. Một trong những mục đích lớn lao là chế tạo máy in thạch bản - thiết bị quan trọng để sản xuất chip tiên tiến. Sự kìm kẹp của Mỹ đã hạn chế khả năng tiếp cận mặt hàng này của Huawei và vì vậy, nhà sản xuất đến từ Bắc Kinh phải tự mình khắc phục. Đối với nhân sự làm việc tại trung tâm mới, Huawei tung ra gói lương cao gấp đôi các nhà sản xuất chip địa phương. Nhiều kỹ sư dày dặn kinh nghiệm làm việc với các nhà chế tạo công cụ chip hàng đầu toàn cầu đã được chiêu mộ, trong đó có những người từng 15 năm cống hiến cho các nhà sản xuất chip hàng đầu như TSMC, Intel và Micron. Tuy nhiên, mức lương hào phóng đồng nghĩa với việc lao động Huawei phải dành thời gian cho nhà máy nhiều hơn bình thường. “Làm việc với họ thật tàn bạo. Đó không phải là 996 nghĩa là làm việc từ 9 giờ sáng đến 9 giờ tối, sáu ngày một tuần nữa, mà là 007. 007 tức là từ nửa đêm đến nửa đêm, bảy ngày một tuần. Không có ngày nghỉ”, một kỹ sư chip Trung Quốc nói với Nikkei Asia. “Hợp đồng có thời hạn ba năm, nhưng phần lớn mọi người không thể tồn tại cho đến lúc đó”. Hạn chế từ phía Mỹ đã thúc đẩy nhiều nhà sản xuất chip Trung Quốc tìm kiếm sự lựa chọn thay thế trong nước. Naura, nhà cung cấp thiết bị bán dẫn hàng đầu đại lục, chứng kiến doanh thu tăng gấp 4 lần kể từ năm 2018. Huawei cũng phản ứng lại bằng cách tăng cường mạnh mẽ năng lực sản xuất trong nước. Theo Nikkei, trung tâm R&D mới của công ty nằm ở quận Qingpu phía tây Thượng Hải, trong một khuôn viên rộng rãi. Nơi đây đặt trung tâm phát triển chip lớn và trụ sở mới của HiSilicon Technologies, đơn vị thiết kế chip của Huawei. Các trung tâm nghiên cứu về công nghệ không dây và điện thoại thông minh cũng điểm mặt. Theo chính quyền Thượng Hải, tổng vốn đầu tư cho toàn bộ cơ sở R&D rơi vào khoảng 12 tỷ nhân dân tệ (1,66 tỷ USD), qua đó biến đây trở thành một trong những dự án hàng đầu thành phố vào năm 2024. Chi tiêu cho R&D của Huawei trong năm 2023 đạt mức cao kỷ lục 164,7 tỷ nhân dân tệ, chiếm 23,4% tổng doanh thu của hãng. Được biết, khuôn viên có diện tích rộng bằng 224 sân bóng đá và lớn gần gấp đôi khuôn viên Ox Horn nổi tiếng. Sau khi hoàn thành, sức chứa nơi đây có thể lên tới hơn 35.000 công nhân công nghệ cao. Trước khi Mỹ thêm Huawei vào danh sách đen thương mại, công ty này tập trung chủ yếu vào thiết kế chip và hợp tác với các đối tác sản xuất toàn cầu như TSMC và Globalfoundries. Sau khi khả năng tiếp cận công nghệ Mỹ bị hạn chế, Huawei chuyển sang hợp tác với nhà sản xuất chip Trung Quốc SMIC và các nhà phát triển chip địa phương. Theo các nhà phân tích, Huawei là một trong những công ty Trung Quốc tích cực nhất trong việc tận dụng các nhà cung cấp địa phương và đầu tư vào nhiều giải pháp thay thế trong nước. Huawei Technologies đang cho xây dựng một trung tâm nghiên cứu và phát triển thiết bị bán dẫn khổng lồ ở Thượng Hải Brady Wang, nhà phân tích chất bán dẫn của Counterpoint, cho biết Huawei đã nỗ lực nội địa hóa nguồn cung chip và chuyển sang sử dụng linh kiện địa phương từ các nhà cung cấp như BOE Technology và Omnivision. “Họ đã đầu tư nhiều hơn vào HiSilicon và giới thiệu chip cho điện thoại và máy chủ. Họ cố gắng nội địa hóa phần lớn chuỗi cung ứng chất bán dẫn của mình”, Brady Wang nói. Theo Nikkei, hoạt động kinh doanh thiết bị viễn thông của Huawei, trọng tâm ban đầu của công ty, đã phát triển tốt bất chấp áp lực từ phía Mỹ. Điều này phần lớn đến từ vị trí dẫn đầu của Huawei trong việc xây dựng mạng 5G. Thị trường quê nhà khổng lồ đã giúp công ty bù đắp tổn thất kinh doanh tại những thị trường mà Mỹ gia tăng áp lực. Nhờ hoạt động kinh doanh thiết bị viễn thông ổn định cùng doanh số điện thoại phục hồi, doanh thu Huawei tăng % lên hơn 700 tỷ nhân dân tệ vào năm 2023. Thành công mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc bởi nó cho thấy các công ty Trung Quốc đang bước đầu thành công trong việc sản xuất chất bán dẫn tiên tiến quy mô lớn. Vai trò của Huawei trong ngành công nghiệp chip Trung Quốc vượt xa những gì các chuyên gia kỳ vọng. Ngoài việc là khách hàng quan trọng đối với các nhà sản xuất và thiết kế chip hàng đầu, Huawei còn có năng lực hỗ trợ tài chính cho các công ty nhỏ hơn trong chuỗi cung ứng. Với các vi mạch xuất hiện trong mẫu điện thoại Mate 60 Pro của Huawei, tập đoàn Sản xuất Chất bán dẫn Quốc tế (SMIC) hồi năm ngoái đã chứng minh được khả năng sản xuất chip tiên tiến. Việc đáp ứng mục tiêu xuất xưởng ít nhất 60 triệu chiếc điện thoại trong năm nay sẽ là bài kiểm tra căng thẳng. Hiện Huawei đang thúc đẩy hoạt động thương mại và Mate 60 Pro chính là ‘bàn đạp’. Các nhà phân tích kỳ vọng doanh số bán thiết bị cầm tay sẽ tăng vọt lên 40 triệu đến 60 triệu chiếc vào năm tới. “Các khoản trợ cấp sẽ giúp Huawei hạ giá sản phẩm”, Chris Miller, tác giả cuốn Chip War: The Fight for the World’s Most Critical Technology, cho biết. “Ở nhiều thị trường mới nổi, điều này có thể sẽ giúp hãng giành thị phần”. Hỗ trợ nhà nước dành cho Huawei đã đạt đến độ ‘chưa từng có’, theo Bloomberg. Một mạng lưới các doanh nghiệp nhận vốn từ quỹ đầu tư chính phủ hiện đang tập trung giúp Huawei xây dựng mạng lưới chip tự cung ứng. Nhóm này bao gồm rất nhiều các chuyên gia quang học, nhà phát triển thiết bị chip và nhà sản xuất hóa chất. Kế hoạch nằm trong nỗ lực trị giá 30 tỷ USD nhằm giúp Huawei xây dựng thêm các cơ sở chế tạo chip. “Huawei hiện là trung tâm. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đã thúc đẩy Trung Quốc và ngành công nghiệp xích lại gần nhau theo cách mà chúng tôi chưa từng thấy trước đây”, Kendra Schaefer, đối tác của công ty tư vấn Trivium China có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết. Theo: Nikkei Asia
Phát hiện lỗ hổng "không thể vá" trong chip Apple M-series, hacker chỉ cần một giờ để xuyên thủng lớp mã hóa bảo mật
Điều thú vị là dù dùng chung một công nghệ tăng tốc như CPU của Apple, các CPU của Intel lại miễn nhiễm trước những cuộc tấn công này. Các chip Apple Silicon M Series của Apple vốn nổi tiếng về hiệu năng, đi kèm với hiệu quả năng lượng cao cũng như bảo mật chặt chẽ, nhưng các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một lỗ hổng bảo mật lớn bên trong con chip này, cho phép hacker có thể ăn trộm các khóa bí mật trên dòng máy MacOS khi chúng thực thi các tác vụ mã hóa. Nhưng điều đáng lo ngại hơn cả là theo các nhà nghiên cứu, lỗ hổng nà gần như không thể vá do nó có nguồn gốc từ lỗi thiết kế phần cứng của con chip mà chỉ có thể giảm nhẹ bằng một lớp bảo vệ bằng phần mềm. Theo báo cáo của ArsTechnica, có tên gọi GoFetch, lỗ hổng này lợi dụng một lỗ hổng bảo mật bị bỏ qua trong con chip của Apple liên quan đến một công nghệ độc đáo được gọi là trình nạp trước dữ liệu trên bộ nhớ (data memory-dependent prefetcher - DMP). Công nghệ này hiện chỉ được dùng trên các chip Apple Silicon và CPU kiến trúc Raptor Lake của Intel, khi nó cho phép dự đoán và tải trước dữ liệu có khả năng truy cập trong tương lai vào bộ nhớ đệm. Bằng giải pháp này, DMP giúp giảm thời gian chờ đợi của CPU khi truy cập dữ liệu, giúp tăng hiệu suất xử lý. Lỗ hổng này liên quan đến một hành vi bị bỏ qua trong trình nạp trước dữ liệu, vì đôi khi nó nhầm lẫn nội dung bộ nhớ với giá trị con trỏ (pointer) trên bộ nhớ được sử dụng để tải dữ liệu khác. Điều này có thể làm trình nạp trước này đôi khi tải các dữ liệu không phù hợp vào bộ nhớ đệm CPU. Vấn đề là lỗ hổng này vô hiệu hóa hoàn toàn khả năng bảo mật bằng lập trình theo thời gian không đổi (constant-time programming) – một giải pháp được thiết kế để ngăn ngừa các cuộc tấn công nhằm đọc trộm dữ liệu trong bộ nhớ đệm của CPU thông qua các trình nạp trước. 
Hậu quả là nếu hacker sử dụng một phần mềm chứa GoFetch, nó có thể qua mặt và đánh lừa phần mềm mã hóa để đưa ra dữ liệu nhạy cảm vào bộ nhớ đệm và tấn công ăn trộm dữ liệu. Theo các nhà nghiên cứu, ứng dụng chứa GoFetch có thể kết nối với ứng dụng cần tấn công – ví dụ ứng dụng ngân hàng hoặc ví điện tử – và cung cấp các đầu vào đã được nó giải mã sẵn. Khi làm vậy, nó sẽ trích xuất được khóa bí mật mà ứng dụng mục tiêu sử dụng để thực hiện quá trình mã hóa. Cuộc tấn công này không chỉ đánh bại các thuật toán bảo mật cổ điển mà còn vượt qua cả các thuật toán bảo mật thế hệ mới để chống lại máy tính lượng tử. Theo các nhà nghiên cứu, ứng dụng chứa GoFetch chỉ cần chưa đến một giờ để trích xuất thông tin cần thiết để tạo thành khóa bảo mật Kyber-512 và mất khoảng 10 giờ để lấy được khóa bảo mật của Dilithium-2. Thật không may là không có cách nào để vá được lỗ hổng này khi nó là một lỗi trong phần cứng của con chip. Cách duy nhất để giảm nhẹ ảnh hưởng là bổ sung lớp bảo mật bằng phần mềm mã hóa bên thứ ba – một điều sẽ làm sụt giảm đáng kể hiệu năng của các chip Apple Silicon M1, M2 – khi thực hiện quá trình mã hóa. 
Điều thú vị là các CPU của Intel lại miễn nhiễm trước các cuộc tấn công này Ngoại lệ duy nhất là chip M3 của Apple khi được trang bị một "công tắc" đặc biệt cho phép các nhà phát triển có thể vô hiệu hóa trình nạp trước dữ liệu DMP. Tuy nhiên không ai có thể biết chắc điều này sẽ làm sụt giảm hiệu năng xử lý như thế nào khi tính năng này bị tắt đi. Điều trớ trêu là dù kiến trúc CPU Raptor Lake của Intel (các CPU dòng Intel Gen 13th và 14th) cũng dùng các trình nạp trước dữ liệu DMP tương tự như các chip M Series của Apple, nhưng chúng lại không gặp phải lỗ hổng này. Các nhà nghiên cứu cho biết, cách tấn công khai thác dựa trên DMP đối với các CPU của Intel lại không làm rò rỉ khóa bí mật như đối với chip M-series của Apple. Điều này cho thấy lỗ hổng này có thể vá lại nhưng nhiều khả năng điều đó sẽ chỉ xuất hiện trên các chip M-series trong tương lai khi các kỹ sư Apple thiết kế lại kiến trúc CPU của mình. Cho đến hiện tại Apple chưa công bố bất kỳ bản cập sửa lỗi nào để ngăn chặn lỗ hổng này, nhưng với mức độ ảnh hưởng như hiện tại, nhiều khả năng quá trình này sẽ mất hàng năm.
55 tuổi đi khởi nghiệp, cụ ông sắp nghỉ hưu tạo nên đế chế chip vĩ đại hơn 700 tỷ USD: ‘Chinh phạt’ từ Mỹ đến Nhật Bản, trở thành huyền thoại trong giới công nghệ
Ở tuổi 55, Morris Chang thành lập TSMC - công ty chip giá trị nhất toàn cầu. Sự nghiệp tận tâm đến mức đủ để ông trở thành huyền thoại, ngay cả khi đã nghỉ hưu. Trước đó, Chang đã dành 3 thập kỷ làm việc tại Mỹ, sau đó chuyển tới Đài Loan (Trung Quốc) với một nỗi ám ảnh kỳ lạ. “Tôi muốn xây dựng nên một công ty bán dẫn vĩ đại”, ông nói. Tham vọng này, dưới bàn tay Chang, được thực hiện rất khác biệt. Người ta sử dụng thiết bị có chip do TSMC sản xuất hàng ngày, song thực tế, tập đoàn này không hề thiết kế hay tiếp thị. TSMC chỉ đơn giản độc quyền sản xuất những con chip do khách hàng yêu cầu và bằng cách đó, không cần bận tâm quá nhiều đến việc vận hành các nhà máy chế tạo riêng biệt, đắt tiền và phức tạp. Mô hình kinh doanh sáng tạo của Chang sau đó đã thay đổi toàn ngành công nghiệp chip, đồng thời đưa TSMC trở thành công ty không thể thiếu đối với nền kinh tế toàn cầu. “Gần như không có ai có tầm ảnh hưởng lớn hơn Morris Chang”, Chris Miller, tác giả cuốn sách “Chip War”, viết. Morris Chang, hiện 92 tuổi, chính thức nghỉ hưu với tư cách chủ tịch TSMC vào năm 2018. Trong bộ vest lịch thiệp, trên tay cầm cốc Diet Coke, ông nhẹ nhàng trả lời phóng viên tờ WSJ: “Tôi không thể thành lập công ty sớm hơn. Tôi nghĩ không ai có thể làm điều đó. Bởi vì tôi là người đi tiên phong rồi”. Morris Chang từng ước mơ trở thành nhà văn, song sau 1 năm học đại học, điều gì đó đã thôi thúc ông tới Viện Công nghệ Massachusetts, học ngành kỹ thuật cơ khí và lấy bằng thạc sĩ. Công việc đầu tiên là trong lĩnh vực chất bán dẫn. Ba năm sau khi chuyển đến Dallas, Chang được công ty cử đến Đại học Stanford để lấy bằng Tiến sĩ. Vào cuối những năm 1960, ông quản lý bộ phận mạch tích hợp của Texas Instruments (TI) và chẳng bao lâu sau đã điều hành toàn bộ nhóm bán dẫn. Morris Chang nghiện việc đến mức gọi điện thuyết phục khách hàng ngay cả trong khoảng thời gian nghỉ tuần trăng mật. Chính điều đó đã làm nên TSMC của ngày hôm nay - tập đoàn vừa đầu từ 40 tỷ USD xây dựng các nhà máy ở Arizona. “Nhiều người nói về sự cân bằng giữa cuộc sống và công việc. Đó là khái niệm tôi không biết khi ở tuổi đó. Với tôi, nếu không có việc làm thì không có cuộc sống”, Morris Chang nói. Năm 1983, biết rằng mình sẽ không thể thăng chức và công ty mình cũng không đặt cược vào một thị trường được cho là tương lai, Chang rời Texas Instruments. Gần như ngay lập tức, ông được nhà sản xuất điện tử General Instrument thuê làm chủ tịch kiêm giám đốc điều hành. Tuy nhiên chỉ 1 năm sau, người đàn ông này đã nộp đơn xin thôi việc. “Tôi là một người không phù hợp – hoàn toàn không phù hợp”, ông nói. Năm 1982, Chang nhận được lời mời làm việc hấp dẫn từ một quan chức tên KT Li với mong muốn thúc đẩy ngành công nghệ. Ông ta muốn Chang trở thành chủ tịch viện công nghệ hàng đầu Đài Loan và biến hoạt động nghiên cứu trở thành ‘cỗ máy in tiền’. Chang lúc đầu từ chối song 3 năm sau lại thay đổi ý định. Ông gọi việc chuyển đến Đài Loan là “cuộc gặp gỡ định mệnh” của đời mình. “Không có gì chắc chắn rằng Đài Loan sẽ cho tôi cơ hội. Tuy nhiên, khả năng đó tồn tại và đó là khả năng duy nhất đối với tôi”, Chang nói. Ở tuổi 55, Morris Chang thành lập TSMC Cách đây không lâu, một nhóm các nhà kinh tế đã điều tra xem liệu các doanh nhân lớn tuổi có thành công hơn người trẻ hay không. Thông qua hồ sơ của Cục điều tra dân số và dữ liệu mới, họ xác định được 2,7 triệu người sáng lập ở Mỹ đã thành lập công ty từ năm 2007 đến năm 2014. Độ tuổi trung bình của những doanh nhân này khi thành lập là 41,9. Đối với những công ty phát triển nhanh nhất, con số đó là 45. Như vậy, những founder 50 tuổi có khả năng thành công lớn gần gấp đôi so với những người sáng lập trong độ tuổi 30 tuổi. Những người 20 tuổi là nhóm ít có khả năng thành công nhất. Các doanh nhân ở độ tuổi 40, 50 có thể không đủ niềm tin rằng mình sẽ thay đổi thế giới, song họ lại có sự từng trải để làm điều này. Morris Chang cũng vậy. Người đàn ông này có tận 30 năm kinh nghiệm trong ngành. “Ông KT Li cảm thấy tôi nên thành lập một công ty bán dẫn ở Đài Loan. Đó là sự khởi đầu của TSMC”, Chang nói và cho biết lúc bấy giờ, cách duy nhất để xây dựng một công ty vĩ đại là tạo ra một tổ chức hoàn toàn mới để khai thác những điểm mạnh và giảm thiểu nhiều điểm yếu. Chang biết công ty mình sẽ không thể đủ nguồn lực để cạnh tranh với Thung lũng Silicon trong lĩnh vực thiết kế, bán hoặc tiếp thị; vậy nên, lợi thế nằm ở chính khâu sản xuất: sản xuất chip – và chỉ sản xuất chip. “Hạt giống” của một xưởng sản xuất chip thuần túy đã được Gordon Campbell, một doanh nhân bán dẫn, gieo vào tâm trí Chang. Campbell đã quen với những khó khăn và sự kém hiệu quả của việc xây dựng và vận hành một nhà máy, vậy nên, ông cảm thấy các công ty khởi nghiệp nên tập trung gia công sản xuất. Mọi công ty đều cần có một xưởng đúc. Đài Loan nắm 48% cổ phần, phần còn lại đến từ gã khổng lồ điện tử Hà Lan Philips và 1 khu vực tư nhân, song Chang là động lực chính thúc đẩy. Ý tưởng sâu sắc đối với TSMC được gây dựng nên từ chính kinh nghiệm, mối quan hệ và chuyên môn sau từng ấy năm cống hiến. “TSMC là sự đổi mới về mô hình kinh doanh”, ông Chang nói. Trong suốt nhiều năm qua, TSMC đã trở thành hãng sản xuất chất bán dẫn hàng đầu thế giới với tầm ảnh hưởng có thể làm rung động nền kinh tế toàn cầu. Việc ngày càng nhiều công nghệ cần sử dụng chip điện tử khiến tầm quan trọng của công ty thêm lan rộng, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 làm gián đoạn nguồn cung. Cho đến nay, TSMC đã sản xuất được rất nhiều những con chip tiên tiến độc quyền tại các nhà máy lớn ở Đài Loan. Việc mô hình được ‘bôi trơn’ tại quê nhà đã giúp hãng này thu về nhiều lợi nhuận, hơn hẳn hầu hết các nhà sản xuất chất bán dẫn khác. Cơn đói chip khiến TSMC càng trở nên giá trị. Trong 5 năm qua, vốn hóa thị trường đã tăng gần gấp bốn lần lên hơn 700 tỷ USD. Khoảng 0,5% cổ phần TSMC mà Chang sở hữu hiện trị giá 3,5 tỷ USD. Nhật Bản vốn không phải là điểm đến hấp dẫn của các ngân hàng, song cũng nhờ sự hiện diện của TSMC mà thu hút được sự chú ý của nhiều ‘đại bàng chip’. TSMC chuẩn bị rất kỹ cho quy trình sản xuất hàng loạt tại nhà máy Kumamoto để phục vụ các khách hàng như Sony, Denso và Renesas. “Sự xuất hiện của TSMC là một tia sáng bất ngờ. Chúng tôi ngay lập tức trở nên nổi tiếng và cứ như thể Kikuyo đột nhiên trở thành người trưởng thành từ một đứa bé vậy”, Takatoshi Yoshimoto, thị trưởng Kikuyo, cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây. Mở rộng hoạt động ra nước ngoài vốn không phải sự lựa chọn ưa thích của TSMC. Tuy nhiên, trước tình trạng khan hiếm chip chưa từng có, tập đoàn buộc phải mở rộng để đảm bảo khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng và trấn an khách hàng. “Arizona là thử nghiệm đầu tiên trong quá trình phát triển siêu nhà máy tại nước ngoài của chúng tôi, Tất nhiên, đó là cả một quá trình học tập”, chủ tịch TSMC Mark Liu nói và cho biết dự án này có thể quyết định xem liệu TSMC có thể chuyển mình thành một công ty đa quốc gia thực sự hay không. Trước đó, TSMC công bố kế hoạch mở rộng ra nước ngoài trị giá hơn 70 tỷ USD trong ba năm kể từ năm 2020 tại Mỹ, Nhật Bản và Đức. Cái giá phải trả khi tham gia cuộc đua chip là rất lớn: Ngân sách chi tiêu trong năm 2024 rơi vào khoảng 28 đến 30 tỷ USD. Theo: WSJ, FT, Bloomberg
Trung Quốc cấm cơ quan nhà nước dùng chip Intel và AMD
Một động thái của Bắc Kinh nhằm thúc đẩy việc sử dụng các sản phẩm nội địa. Theo Financial Times, Trung Quốc đã ban hành các quy định hạn chế việc sử dụng chip xử lý của các hãng Mỹ như AMD và Intel trong máy tính và máy chủ chính phủ. Quy định mới này cũng loại bỏ hệ điều hành Microsoft Windows và các sản phẩm cơ sở dữ liệu nước ngoài, thay vào đó ưu tiên các giải pháp trong nước. Đây được xem là động thái mới nhất trong cuộc chiến thương mại công nghệ kéo dài giữa hai quốc gia. Các cơ quan chính phủ Trung Quốc hiện được yêu cầu sử dụng các sản phẩm thay thế trong nước "an toàn và đáng tin cậy" cho chip AMD và Intel. Danh sách này bao gồm 18 chip xử lý được phê duyệt, trong đó có chip của Huawei và Phytium – cả hai đều bị Mỹ cấm vận. Một con chip của Phytium Quy định mới - được ban hành vào tháng 12 và lặng lẽ triển khai gần đây - có thể ảnh hưởng đáng kể đến Intel và AMD. Theo Financial Times, Trung Quốc chiếm 27% trong tổng doanh số 54 tỷ USD của Intel vào năm ngoái và 15% trong tổng doanh thu 23 tỷ USD của AMD. Tuy nhiên, hiện chưa rõ có bao nhiêu chip được sử dụng trong lĩnh vực chính phủ so với tư nhân. Đây là động thái quyết liệt nhất của Trung Quốc nhằm hạn chế việc sử dụng công nghệ do Mỹ sản xuất. Năm ngoái, Bắc Kinh đã cấm các công ty trong nước sử dụng chip Micron trong các cơ sở hạ tầng quan trọng. Trong khi đó, Mỹ đã cấm một loạt công ty Trung Quốc, từ nhà sản xuất chip đến các công ty hàng không vũ trụ. Chính quyền Biden cũng đã ngăn chặn các công ty Mỹ như NVIDIA bán chip AI và các chip khác cho Trung Quốc. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hà Lan thống trị thị trường sản xuất chip xử lý tiên tiến, và gần đây các quốc gia này đã đồng ý thắt chặt kiểm soát xuất khẩu máy sản xuất chip quang học (lithography machine) từ các hãng ASL, Nikon và Tokyo Electron. Tuy nhiên, các công ty Trung Quốc, bao gồm Baidu, Huawei, Xiaomi và Oppo, đã bắt đầu thiết kế các chất bán dẫn của riêng họ để chuẩn bị cho tương lai mà họ không thể nhập khẩu chip từ Mỹ và các nước khác. Theo Đời sống Pháp luật
|
Choáng với quy trình sản xuất chip: Gom nguyên vật liệu từ 16 quốc gia với 2.000 bước chế tạo, ít nhất 70 lần vượt biên giới trước khi đến tay người dùng
Chất bán dẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế hiện đại, cung cấp năng lượng cho mọi thứ từ trò chơi điện tử, ô tô đến siêu máy tính, hệ thống vũ khí. Chính quyền Tổng thống Joe Biden đang đầu tư 39 tỷ USD giúp các công ty xây dựng thêm nhà máy ở Mỹ, với mục đích sau cùng là củng cố chuỗi cung ứng chung. Tuy nhiên, ngay cả sau khi các cơ sở ở Mỹ được xây dựng, hoạt động sản xuất chip nhớ vẫn mang tính chất toàn cầu, theo The New York Times. Ví dụ về một con chip thuộc sở hữu của nhà sản xuất Onsemi (Mỹ) cho thấy việc tách khỏi Đông Á và các khu vực khác khó khăn như thế nào. Những bước đầu tiên để chế tạo loại chất bán dẫn đặc biệt này, được gọi là cacbua silic, diễn ra tại một nhà máy ở New Hampshire. Quá trình phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô, máy móc và bằng sở hữu trí tuệ từ hàng chục nhà cung cấp và nhà máy nước ngoài. Bên trong nhà máy ở New Hampshire của Onsemi, bột silicon và carbon đen từ Na Uy, Đức và Đài Loan (Trung Quốc) sẽ được thêm vào than chì và khí đến từ Mỹ, Đức và Nhật Bản, sau đó trải qua quá trình nung nóng để tạo ra một thứ gọi là “xương sống” của hàng triệu con chip. Chúng cứng gần như kim cương và sẽ được gửi đến một nhà máy ở Cộng hòa Séc để cắt thành các tấm mỏng. Các tấm bán dẫn sau đó được chuyển đến một nhà máy siêu sạch ở Hàn Quốc, xử lý và chuyển đến các cơ sở ở Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam để hoàn thiện và thử nghiệm trước đi đặt chân tới các trung tâm phân phối toàn cầu ở Trung Quốc và Singapore. Điểm dừng cuối cùng là Hyundai, BMW…- nơi các nhà sản xuất ô tô ứng dụng chúng vào hệ thống xe điện. Số khác sẽ được bán cho các nhà cung cấp phụ tùng ở Canada, Trung Quốc và Mỹ. Chip máy tính được phát minh đầu tiên ở Mỹ, song đến cuối những năm 1960, các bộ phận của chuỗi cung ứng mới bắt đầu dịch chuyển ra nước ngoài khi các công ty tìm cách tiết kiệm chi phí. Với sự trợ giúp hào phóng, các công ty châu Á cuối cùng cũng có thể sản xuất chip rẻ hơn và tiên tiến hơn so với phương Tây. Theo số liệu của ngành, thị phần sản xuất chip thế giới của Mỹ hiện đã giảm xuống chỉ còn 12% từ mức 37% vào năm 1990. Nước này theo đó cố gắng giành lại hoạt động sản xuất nhằm giúp chuỗi cung ứng trở nên linh hoạt, đồng thời tránh gây thiệt hại về mặt kinh tế. Một nghiên cứu hồi năm 2020 của Tập đoàn Tư vấn Boston và Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn ước tính khoản đầu tư 50 tỷ USD sẽ giúp Mỹ tăng thị phần sản xuất lên 13 hoặc 14% vào năm 2030. Nếu không có nguồn tài trợ, thị phần của Mỹ sẽ giảm xuống còn 10%. Đối với những con chip tiên tiến nhất, bao gồm cả những con chip đang giúp thúc đẩy sự bùng nổ về trí tuệ nhân tạo, quan chức Mỹ cho biết các khoản đầu tư mới sẽ đưa nước này đi đúng hướng và đạt mục tiêu sản xuất khoảng 20% số chip logic hàng đầu thế giới vào cuối năm nay. 
Hoạt động sản xuất chip nhớ mang tính chất toàn cầu. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất chip và điện tử có thể sẽ tập trung ở châu Á trong tương lai gần, theo Moody's Analytics. Chance Finley, phó chủ tịch chuỗi cung ứng toàn cầu của Onsemi, cho biết các công ty công nghệ hiện đang chịu áp lực cạnh tranh vô cùng gay gắt để giảm chi phí, vậy nên buộc phải hợp tác với hầu hết các nhà sản xuất lành nghề ở châu Á. Cũng theo Chance Finley, chi phí đắt đỏ để xây dựng các cơ sở sản xuất chip – dao động từ 5 tỷ USD đến 20 tỷ USD - đã khuyến khích các nhà sản xuất thuê cơ sở ở nước ngoài thay vì tự xây dựng. Chip cũng nhỏ và nhẹ nên dễ dàng di chuyển khắp thế giới. Ngoài ra, sản xuất chip cần rất nhiều vốn. Đây cũng là một trong những ngành phức tạp nhất thế giới với lịch sử biến động mạnh theo chu kỳ. Các công ty theo đó phải đặc biệt chú trọng nếu muốn mở rộng quy mô. Onsemi hiện đang tìm kiếm các khoản đầu tư mới của Mỹ vào ngành công nghiệp chip, đồng thời xem xét các địa điểm ở Mỹ, Cộng hòa Séc và Hàn Quốc để mở rộng 2 tỷ USD. Một nghiên cứu hồi năm 2020 của Liên minh Bán dẫn Toàn cầu và Accenture cho thấy chip và các bộ phận liên quan có thể vượt qua biên giới quốc tế 70 lần hoặc hơn trước khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Quãng đường di chuyển ước tính đạt hơn 25.000 dặm. “Ý tưởng cho rằng chúng tôi sẽ tự cung tự cấp bằng cách nào đó là không thực tế. Chúng tôi là một phần của chuỗi cung ứng toàn cầu này, dù muốn hay không”, Bindiya Vakil, giám đốc điều hành Resilinc, nhận định. Theo Financial Times, các công ty bán dẫn hàng đầu thế giới đang chạy đua để sản xuất chip xử lý kích cỡ 2 nm để cung cấp năng lượng cho các thế hệ smartphone, trung tâm dữ liệu và sản phẩm trí tuệ nhân tạo vào năm 2025. TSMC, Samsung và Intel đang là những đối thủ dẫn đầu trong cuộc đua. “Trong dài hạn, cuộc đua thu nhỏ con chip này sẽ thay đổi. Lần đầu tiên sau 40 năm, Intel phải thiết kế lại kiến trúc chip của mình nhằm tận dụng ưu thế khi đóng gói chip”, Tiến sĩ Sadasivan Shankar, chuyên gia bán dẫn, Đại học Stanford, Mỹ, nhận định. Theo các chuyên gia, việc chính phủ Mỹ và châu Âu tăng cường trợ cấp cho các nhà sản xuất chip cho thấy sự công nhận của giới chức, rằng chất bán dẫn không chỉ quan trọng đối với an ninh quốc gia, hệ thống vũ khí tiên tiến, mà còn đối với cả cuộc sống hàng ngày.Các Giám đốc điều hành kỳ vọng doanh thu toàn cầu sẽ tăng gấp đôi lên hơn 1 nghìn tỷ USD/năm trong thập kỷ tới, qua đó tạo cơ sở cho các khoản đầu tư khổng lồ. Theo: The New York Times, WSJ
Vì sao chip lại trở thành 'cuộc đua vũ trang' mới trên toàn cầu?
Chip là linh kiện thiết yếu để hiểu và xử lý những khối dữ liệu khổng lồ, tầm quan trọng có thể sánh ngang với dầu mỏ và trở thành huyết mạch của nền kinh tế. Công nghệ bán dẫn, lĩnh vực sản xuất vô cùng phức tạp và có tính rủi ro cao, luôn là cuộc chiến giữa những gã khổng lồ của ngành. Giờ đây, nó còn là cuộc đua giữa các chính phủ. Linh kiện công nghệ quan trọng này còn được gọi là mạch tích hợp hoặc cách gọi thông dụng hơn là chip. Đây có thể là sản phẩm có kích cỡ nhỏ nhưng lại có quy trình sản xuất khắt khe nhất. Do quá khó và tốn kém, thế giới phụ thuộc vào một số ít công ty, sự phụ thuộc này càng trở nên rõ ràng qua tình trạng thiếu hụt chip trong đại dịch. Trong thời đại bùng nổ công nghệ, chip cũng đã trở thành một "vũ khí" địa chính trị, với việc Mỹ tăng cường các hạn chế xuất khẩu sang Trung Quốc để kiềm chế sự trỗi dậy của một đối thủ cạnh tranh kinh tế. Chip trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người hiện nay. (Ảnh: PIXABAY) Vì sao chip thành 'cuộc đua vũ trang'? Silicon là trung tâm của mọi đột phá về công nghệ. Phần lớn công nghệ chip hàng đầu thế giới có nguồn gốc từ Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc là thị trường lớn nhất về linh kiện điện tử và có mong muốn ngày càng tăng trong việc tự sản xuất chip cho chính mình. Điều đó đã khiến ngành công nghiệp này trở thành tâm điểm của Washington khi họ cố gắng hạn chế sự trỗi dậy của đối thủ cạnh tranh châu Á và giải quyết những gì họ cho là các vấn đề an ninh quốc gia. Về phía mình, Bắc Kinh đã đổ hàng tỷ USD vào các nỗ lực xây dựng ngành công nghiệp chip nội địa và giảm bớt sự phụ thuộc nguồn nhập khẩu, vốn đang ngày càng bị Mỹ hạn chế. Đồng thời, châu Âu và Mỹ đang dành ra một khoản tiền chính phủ khổng lồ để đưa sản xuất chip trở lại trong nước, nhằm giảm bớt điều mà họ gọi là "sự phụ thuộc nguy hiểm vào một vài cơ sở sản xuất ở Đông Á". Tầm quan trọng của chip Chip là linh kiện thiết yếu để hiểu và xử lý những khối dữ liệu khổng lồ, giờ đây sánh ngang với dầu mỏ, trở thành huyết mạch của nền kinh tế. Được tạo ra trên các tấm đĩa bán dẫn làm từ silicon, chip có thể thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Chip nhớ có chức năng lưu trữ dữ liệu, tương đối đơn giản và được giao dịch như hàng hóa. Chip logic chạy chương trình và hoạt động như bộ não của thiết bị, phức tạp và đắt tiền hơn. Việc truy cập vào các thành phần như bộ tăng tốc AI H100 của Nvidia Corp đã trở nên gắn liền với cả an ninh quốc gia lẫn vận mệnh của các công ty khổng lồ như Google và Microsoft của Alphabet, trong cuộc đua xây dựng các trung tâm dữ liệu khổng lồ nhằm giành ưu thế trong lĩnh vực được coi là tương lai của điện toán. Nhưng trong thời đại bùng nổ công nghệ hiện nay, ngay cả các thiết bị hàng ngày cũng ngày càng phụ thuộc vào chip. Mỗi lần nhấn nút trong một chiếc xe đầy tiện ích đều cần những con chip đơn giản để chuyển đổi thao tác chạm đó thành tín hiệu điện tử. Và tất cả các thiết bị chạy bằng pin đều cần chip để chuyển đổi và điều chỉnh dòng điện. Ai kiểm soát nguồn cung? Sản xuất chip đã trở thành một ngành kinh doanh ngày càng bấp bênh và độc quyền. Các nhà máy mới có giá thành hơn 20 tỷ USD phải mất nhiều năm để xây dựng và cần hoạt động hết công suất 24 giờ một ngày để tạo ra lợi nhuận. Quy trình khắt khe và đòi hỏi quy mô lớn đã giảm số công ty có khả năng sản xuất chip xuống chỉ còn 3 - Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC), Samsung Electronics của Hàn Quốc và Intel Corp của Mỹ. TSMC và Samsung hoạt động như các xưởng đúc (foundry), cung cấp dịch vụ sản xuất theo hợp đồng cho các công ty trên toàn thế giới. Tất cả các bên, từ Nvidia đến các nỗ lực nội bộ của Microsoft và Amazon, đều phụ thuộc vào việc tiếp cận các cơ sở sản xuất tốt nhất, phần lớn nằm ở Đài Loan. Intel trước đây tập trung sản xuất chip cho riêng mình, nhưng hiện cũng đang cố gắng cạnh tranh với TSMC và Samsung trong lĩnh vực kinh doanh sản xuất theo hợp đồng. Những thiết bị trong dây chuyền sản xuất chip xử lý của Intel. (Ảnh: CNET) Ở phân khúc thấp hơn, có một ngành công nghiệp khổng lồ sản xuất các loại chip analog, một thành phần cốt lõi không thể thiếu trong hầu hết các thiết bị điện tử chúng ta đang dùng hàng ngày như điện thoại di động, máy tính, thậm chí cả các hệ thống âm thanh, ô tô, thiết bị y tế,... Các công ty như Texas Instruments (Mỹ) và STMicroelectronics NV (Pháp - Italia) là những nhà sản xuất hàng đầu cho loại chip này. Tuy nhiên, Trung Quốc, quốc gia bị cản trở tiếp cận nhiều máy móc cần thiết để sản xuất các bộ phận tiên tiến, cũng đang nhắm đến dòng chip analog, đầu tư mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất và giành thị phần. Điều gì đang xảy ra? Bất chấp mức chi tiêu khổng lồ của Trung Quốc, các nhà sản xuất chip của nước này vẫn phụ thuộc vào công nghệ của Mỹ và khả năng tiếp cận công nghệ sản xuất chip ở nước ngoài của họ đang bị thu hẹp. Mỹ đã áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu chặt chẽ hơn trong năm 2023 đối với một số loại chip và thiết bị sản xuất chip để ngăn Trung Quốc phát triển các năng lực mà Washington coi là "mối đe dọa quân sự tiềm tàng", như siêu máy tính và trí tuệ nhân tạo. Vào tháng 10, các biện pháp hạn chế đã được thắt chặt hơn nữa bằng các thỏa thuận đạt được với Nhật Bản và Hà Lan sẽ có hiệu lực vào năm 2024. Một số công ty công nghệ hàng đầu của Trung Quốc, bao gồm Huawei Technologies, đã bị liệt vào một danh sách đen của Mỹ được gọi là "Danh sách thực thể" (Entity list). Theo đó, các nhà cung cấp công nghệ chip của Mỹ phải được chính phủ phê duyệt mới được phép bán sản phẩm cho các công ty này. Đây là một động thái nhằm hạn chế khả năng phát triển chip cao cấp và xây dựng các ứng dụng AI tiên tiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, Huawei năm nay đã ra mắt điện thoại Mate 60 Pro sử dụng chip Kirin 9000s mới. Bộ xử lý này được Tập đoàn Sản xuất Chất bán dẫn Quốc tế (SMIC) có trụ sở tại Thượng Hải sản xuất với công nghệ 7nm, tiên tiến hơn so với quy định của Mỹ cho phép. Các chính trị gia Mỹ đã quyết định rằng họ cần phải làm nhiều hơn là chỉ kiềm chế Trung Quốc. Đạo luật Khoa học và Chip năm 2022 sẽ cung cấp khoảng 50 tỷ USD tiền liên bang để hỗ trợ sản xuất chất bán dẫn của Mỹ và thúc đẩy lực lượng lao động lành nghề mà ngành này cần. TSMC, Samsung và Intel, ba nhà sản xuất chip lớn nhất, đều đã công bố kế hoạch xây dựng các nhà máy mới ở Mỹ. Châu Âu cũng nhảy vào cuộc đua nhằm giảm bớt sự tập trung sản xuất chip ở Đông Á. Các quốc gia Liên minh Châu Âu (EU) đã nhất trí vào tháng 11/2023 về kế hoạch trị giá 43 tỷ euro để khởi động lại năng lực sản xuất chất bán dẫn của họ. Mục tiêu là tăng gấp đôi sản lượng trong khối lên 20% thị trường toàn cầu vào năm 2030. Ở những nơi khác, Nhật Bản đã dành khoảng 4 nghìn tỷ yên (27 tỷ USD) trong quỹ chính phủ để phục hồi lĩnh vực bán dẫn và hy vọng rằng chi tiêu trong lĩnh vực này, bao gồm cả hỗ trợ của khu vực tư nhân, có thể đạt tới 10 nghìn tỷ yên (67,4 tỷ USD). Một trong những mục tiêu của kế hoạch là gấp ba doanh số bán chip do nội địa sản xuất vào năm 2030. Theo vtcnews.vn
Ai là Blackwell - người được NVIDIA vinh danh đặt tên cho chip AI mạnh nhất thế giới
Tiếp tục truyền thống của mình, NVIDIA đã sử dụng tên của một nhà toán học để đặt cho chip AI mới. NVIDIA mới đây đã ra mắt Blackwell B200 trong một sự kiện đông nghẹt người tham dự, đến mức được ví như nhạc hội của Taylor Swift. NVIDIA cho biết đây là "chip AI mạnh nhất thế giới". GPU mang tính đột phá này được đặt theo tên của nhà toán học nổi tiếng David Harold Blackwell, một nhân vật rất phù hợp để vinh danh trên GPU mới của NVIDIA. Chip mang vi kiến trúc Blackwell (trái) và chip vi kiến trúc Hopper (phải) NVIDIA có truyền thống đặt sản phẩm của mình theo tên những người tiên phong trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trước Blackwell, NVIDIA đã đặt tên GH200 theo Grace Hopper, một nhà khoa học máy tính, nhà toán học và đô đốc Hải quân Mỹ. Hopper là một trong những lập trình viên đầu tiên của máy tính Harvard Mark I và là người tiên phong về lập trình máy tính. Bà có công trong việc phát triển COBOL, một ngôn ngữ lập trình cấp cao vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. David Harold Blackwell: Một tên tuổi lớn trong toán học David Harold Blackwell, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1919, là một nhà thống kê và toán học người Mỹ, người đã có những đóng góp đáng kể cho lý thuyết đối sách, lý thuyết xác suất, lý thuyết thông tin và thống kê. Blackwell là người Mỹ gốc Phi đầu tiên được giới thiệu vào Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, là giáo sư chính thức người Mỹ gốc Phi đầu tiên (có nhiệm kỳ) tại Đại học California, Berkeley và là người Mỹ gốc Phi thứ bảy nhận bằng Tiến sĩ trong toán học. Ông qua đời tại Berkeley, California vào ngày 8 tháng 7 năm 2010, thọ 91 tuổi. Năm 2012, Tổng thống Obama đã truy tặng Blackwell Huân chương Khoa học Quốc gia. Di sản của Blackwell về xác suất và thống kê, đặc biệt là những đóng góp của ông cho thống kê Bayes, đã có tác động sâu sắc đến lĩnh vực này. Công trình của ông đã đặt nền móng cho nhiều phương pháp thống kê hiện đại. Tất cả những điều này cho thấy ông là cái tên phù hợp cho một con chip được thiết kế để xử lý các phép tính và phân tích dữ liệu phức tạp. Tin đồn về việc NVIDIA sử dụng tên Blackwell bắt đầu lan truyền từ tháng 7 năm 2021, khi một leaker nổi tiếng về NVIDIA đã đăng bức ảnh của ông lên Twitter (nay là X). Sau đó, năm 2022, một nhóm hacker đã truy cập thành công vào server của NVIDIA và phát hiện có một file nhắc đến ARCH_BLACKWELL, từ đó, nhiều người đã tin rằng Blackwell sẽ là tên tiếp theo của GPU AI NVIDIA. Thông tin về chip Blackwell đã xuất hiện từ năm 2022 Việc GPU mới của NVIDIA vinh danh David Harold Blackwell là sự tri ân phù hợp đối với một người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho toán học và thống kê. GPU Blackwell B200: "chip mạnh nhất thế giới dành cho AI" CEO NVIDIA Jensen Huang cho biết tại sự kiện GTC: "GPU Blackwell là động cơ thúc đẩy cuộc Cách mạng công nghiệp mới này." Huang nói thêm trong thông cáo báo chí: "AI tạo sinh là công nghệ định hình thời đại chúng ta. Làm việc với những công ty năng động nhất trên thế giới, chúng tôi sẽ hiện thực hóa lời hứa về AI cho mọi ngành công nghiệp." NVIDIA tuyên bố Blackwell là con chip mạnh nhất thế giới, cung cấp hiệu suất nâng cấp đáng kể cho các công ty AI với tốc độ 20 petaflop so với chỉ 4 petaflop mà H100 cung cấp. Phần lớn tốc độ này có được nhờ vào 208 tỷ bóng bán dẫn trong chip Blackwell so với 80 tỷ bóng bán dẫn trong H100. Để đạt được điều này, NVIDIA đã kết nối hai khuôn chip lớn có thể giao tiếp với nhau với tốc độ lên tới 10 terabyte mỗi giây. NVIDIA không tiết lộ chip Blackwell sẽ có giá bao nhiêu. Theo CNBC, các chip H100 của hãng hiện có giá từ 25.000 đến 40.000 USD mỗi chip và toàn bộ hệ thống sử dụng các chip này có thể có giá lên tới 200.000 USD. Hãng cũng hướng tới khách hàng mua số lượng lớn bằng cách đóng gói nhiều chip vào một thiết kế duy nhất, gọi là GB200 NVL72. GB200 chứa 72 GPU Blackwell, 36 CPU Grace và 600.000 bộ phận. NVLink thế hệ mới mang lại khả năng truyền dữ liệu lên tới 1,8TB/s cho mỗi GPU, engine biến đổi thế hệ mới cho phép Blackwell hỗ trợ những mô hình AI với sức tính toán và quy mô gấp đôi những phiên bản tiền nhiệm. Jensen Huang cũng cho biết Amazon, Google, Microsoft và Oracle sẽ dùng GB200 NVL72 cho trung tâm dữ liệu của họ. Theo Đời sống Pháp luật
RISC-V vs ARM: A Comprehensive Comparison of Processor Architectures
In the ever-evolving world of processor architectures, the showdown between RISC-V and ARM sparks fervent competition. With their distinct histories, these two giants are redefining computing power and igniting discussions on openness, customization, and innovation in microprocessors.
IntroductionRISC-V and ARM are two processor architectures that have gained significant attention in recent years. RISC-V is an open-source Instruction Set Architecture (ISA) based on the Reduced Instruction Set Computing (RISC) principles, while ARM is a proprietary ISA that has become the dominant choice for embedded systems and mobile devices due to its longstanding presence in the market, as well as years of trust and expertise cultivated resulting in widespread reputation. Comparing these two architectures is essential for understanding their strengths and weaknesses, as well as their potential impact on the future of computing. In this article, we will delve into the history, architectural features, performance, power efficiency, ecosystem, licensing models, use cases, and future prospects of both RISC-V and ARM. By providing a comprehensive comparison, we aim to equip readers with the knowledge necessary to make informed decisions about which architecture best suits their needs and to understand the implications of the ongoing competition between these two processor architectures. What is an ISA (Instruction Set Architecture)?At the heart of every processor's functioning lies its Instruction Set Architecture (ISA), a blueprint that outlines the set of instructions a processor can understand and execute. It serves as a fundamental bridge between hardware and software, shaping the capabilities and performance of a processor. The choice of ISA influences how software is developed, and it has a lasting impact on a processor's efficiency, compatibility, and flexibility. ISAs can be broadly categorized into two types: Open and Closed. Closed ISAs, like ARM, are proprietary and tightly controlled by specific companies (Arm Holdings here), offering established reliability and compatibility but limiting customization. On the other hand, open ISAs, exemplified by RISC-V, are community-driven and provide greater flexibility for customization, fostering innovation and adaptation to specific needs. The ongoing debate between RISC-V and ARM revolves around the distinct ISAs they embody, each offering unique strengths and approaches to cater to the evolving landscape of computing needs. RISC-V vs ARM: Background and HistoryRISC-V RISC-V based SiFive's HighFove 1 Processor. Credits: Wikimedia
The landscape of computer architecture has been marked by significant developments over the years. Historically dominated by the x86 architecture, which propelled giants like Intel, a new chapter in the story began with the emergence of ARM. Initially focused on creating energy-efficient processors for mobile devices, ARM's success encouraged a shift towards Reduced Instruction Set Computing (RISC) architectures. While ARM had indeed achieved success in the market, it was a proprietary architecture with licensing fees and limitations on customization. This proprietary nature hindered smaller players, startups, and researchers from fully participating in the development of advanced processors. RISC-V aimed to address these limitations by providing an open-source alternative. Thus, the motivation behind RISC-V's development emerged from a desire for greater openness, customization, and innovation in the realm of processor architectures. RISC-V has its origins in the Computer Science Division at the University of California, Berkeley. The project began in 2010 as a research endeavor led by professors Krste Asanović, David Patterson, and their team. The first RISC-V specifications were released in 2011, and the RISC-V International was established in 2015 to promote the adoption and standardization of the RISC-V ISA. The foundation has since grown to include over 200 members, including major technology companies such as Google, NVIDIA, and Western Digital. RISC-V has seen rapid adoption in various industries, with several companies developing and releasing RISC-V-based processors and systems-on-chip (SoCs). One of the key milestones in RISC-V's history was the release of the RISC-V Privileged Architecture Specification in 2017, which defined the interface between the hardware and the operating system. This specification enabled the development of more sophisticated RISC-V processors and facilitated the porting of operating systems such as Linux to the RISC-V platform. Another significant milestone was the announcement of the first commercial RISC-V processor, the SiFive Freedom U540, in 2018. This processor demonstrated the viability of RISC-V for commercial applications and paved the way for further adoption of the architecture in the industry. ARMARM, which stands for Advanced RISC Machine, has its roots in Acorn Computers, a British company that developed the Acorn RISC Machine architecture in the 1980s. The ARM architecture was initially designed for use in Acorn's personal computers, with a focus on power efficiency and simplicity. In 1990, Acorn Computers, Apple, and VLSI Technology formed a joint venture called Advanced RISC Machines Ltd., which later became ARM Holdings. The first ARM processor, the ARM1, was introduced in 1985, and the ARM2 followed in 1986. These early processors were primarily used in Acorn's Archimedes line of computers. However, the ARM architecture gained widespread recognition when Apple chose the ARM610 processor for its Newton personal digital assistant (PDA) in 1993. This marked the beginning of ARM's dominance in the mobile and embedded systems market. Over the years, ARM has developed multiple processor families, each targeting specific market segments and performance requirements. Some notable ARM processor families include the Cortex-A series for high-performance applications, the Cortex-R series for real-time systems, and the Cortex-M series for microcontrollers and low-power devices. ARM's success can be attributed to its innovative licensing model, which allows semiconductor companies to license ARM's IP and customize it for their specific needs. This flexibility has enabled various companies, including industry giants like AMD, to design and manufacture ARM-based CPUs and GPUs optimized for different applications, ranging from energy-efficient mobile devices to high-performance servers. This has led to a vast ecosystem of ARM-based processors and devices, with over 180 billion ARM chips shipped to date. Around 30 Billion ARM chips are shipped every year. The ARM architecture has become the de facto standard for mobile devices, IoT, and embedded systems, with major companies such as Apple, Samsung, and Qualcomm relying on ARM processors for their products. RISC-V vs ARM: Architectural OverviewRISC-V RISC-V Architecture Block Diagram. Credits: RoalogicThe RISC-V architecture is based on the RISC principles (as compared to CISC), which emphasize a small, simple, and efficient instruction set.
The key architectural features of RISC-V include a load-store architecture, a fixed-length 32-bit instruction format, and a small number of general-purpose registers. RISC-V supports various integer instruction set extensions, such as RV32I (32-bit), RV64I (64-bit), and RV128I (128-bit), which define the base integer instruction set for different address space sizes. RISC-V utilizes little-endian byte ordering within the memory system, implying that the smallest significant byte of multi-byte data is stored at the lowest memory address. Below are a few unique features of RISC-V architecture: - Modularity & Extensibility: One of the defining characteristics of RISC-V is its modularity and extensibility. The ISA is designed to be easily extended with custom instructions and coprocessors, allowing for tailored implementations that meet specific application requirements. This flexibility is achieved through a modular design, where the base ISA can be combined with optional standard extensions, such as the M extension for integer multiplication and division, the A extension for atomic operations, and the F and D extensions for single- and double-precision floating-point arithmetic.
- Compressed instruction set: Compared to ARM’s Thumb instruction set, RISC-V also supports a compressed instruction set extension called RV32C (or RV64C for 64-bit), which provides 16-bit compressed instructions that can be mixed with the standard 32-bit instructions. This feature helps reduce code size and improve energy efficiency, making RISC-V particularly suitable for embedded systems and low-power applications.
- Privilege levels & Virtual Memory: Another important aspect of RISC-V's architecture is its support for privilege levels and virtual memory. The RISC-V Privileged Architecture Specification defines three privilege levels: machine mode (M-mode), supervisor mode (S-mode), and user mode (U-mode). These privilege levels provide a mechanism for isolating the operating system kernel, hypervisors, and user applications, ensuring system security and stability. RISC-V also supports a virtual memory system based on a multi-level page table scheme, enabling efficient memory management and protection.
ARM ARM Architecture Block Diagram. Credits:https://commons.wikimedia.org/
ARM architecture is also based on RISC principles, with a focus on power efficiency and simplicity. The key architectural features of ARM include a load-store architecture, a mix of fixed-length 32-bit and variable-length Thumb instructions, and a large number of general-purpose registers. The memory system employs bi-endian byte-ordering, enabling an ARM processor or machine to seamlessly process and transmit data in both endian formats at the hardware level. ARM processors are organized into several families, each targeting specific performance and power requirements. The most widely used ARM processor families are the Cortex-A, Cortex-R, and Cortex-M series. The Cortex-A series is designed for high-performance applications, such as smartphones, tablets, and servers. These processors support advanced features like out-of-order execution, superscalar pipelines, and hardware virtualization. The Cortex-R series is optimized for real-time systems, offering fast interrupt response times and deterministic behavior. These processors are commonly used in automotive, industrial, and safety-critical applications. The Cortex-M series is tailored for microcontrollers and low-power devices, with a focus on energy efficiency and ease of use. - Thumb Instruction Set: ARM processors typically implement the ARM and Thumb instruction sets, with the latter providing 16-bit compressed instructions for improved code density and energy efficiency. ARM introduced the Thumb instruction set as an optional 16-bit extension to the traditional 32-bit ARM instructions. This feature enables code size reduction while maintaining reasonable performance, making it suitable for memory-constrained devices like embedded systems.
- Memory Management & Protection: ARM processors support various levels of memory management and protection, including a Memory Protection Unit (MPU) for simple systems and a Memory Management Unit (MMU) for more complex systems with virtual memory support. The ARMv8-A architecture, introduced in 2011, added support for 64-bit address spaces and introduced the AArch64 execution state, which provides a new 64-bit instruction set alongside the existing 32-bit ARM and Thumb instruction sets.
- Optional Enhancements: In addition to the base ISA, ARM processors can include optional extensions, such as the NEON SIMD (Single Instruction, Multiple Data) extension for multimedia and signal processing tasks, and the Cryptography extension for hardware-accelerated encryption and decryption. These extensions enable ARM processors to efficiently handle a wide range of workloads while maintaining low power consumption and a small silicon footprint.
To conclude, RISC-V champions open-source flexibility and adaptability, attracting developers, researchers, and innovators seeking customizable solutions. In contrast, ARM stands as an industry giant with its proprietary prowess and well-established ecosystem, catering to diverse industries including mobile, embedded systems, and data centers. RISC-V's modular approach offers customization possibilities, whereas ARM's specialized cores deliver targeted performance. Both architectures have strengths, making the conclusion a matter of context. RISC-V appeals to those prioritizing customization and open standards, while ARM's refined offerings cater to a broad spectrum of applications across different sectors. RISC-V vs ARM: PerformanceThe comparison between RISC-V and ARM architectures is multi-faceted and involves a range of factors that influence performance. Let's explore a few of these while also comparing specific models like the P550 vs Cortex-A75 and BeagleV vs Raspberry Pi. - Core Generations and Progression: The P550 from SiFive is comparable to ARM's Cortex-A75, showcasing RISC-V's capabilities in line with an established ARM core. However, ARM's continuous progression has led to subsequent generations like A-76, A-77, A-78, Cortex-X1, and Cortex-X2, potentially placing the P550 behind ARM's latest models by several generations. ARM's consistent evolution gives them a performance edge.
- Core Equivalents and Efficiency: The BeagleV's U74 core aligns with ARM's Cortex-A55 architecture, while Raspberry Pi incorporates the Cortex-A72, offering potential advantages in performance and cost-effectiveness. ARM's existing core choices provide established options for various performance levels.
- Ecosystem and Industry Adoption: ARM's dominance in the industry stems from its extensive ecosystem, backed by a broad range of software and hardware support. Companies utilizing ARM processors can tap into a mature infrastructure that accelerates development and deployment.
- Customization and Openness: RISC-V's modular and extensible architecture provides customization opportunities that ARM's proprietary architecture might lack. However, ARM's proven track record, stability, and established standards offer a solid foundation for performance optimization.
- Catching Up and Future Prospects: To match ARM's performance standards, RISC-V proponents like SiFive need to continue advancing their core designs, closing the generation gap. ARM's steady progression necessitates sustained efforts from RISC-V to catch up in terms of performance and ecosystem maturity.
Let’s study a comparison between the products of the 2 competitors to get a better understanding. Consider the performance graph below: As depicted in the illustration (check comparison graph on the link), ARM’s Cortex-A78 marginally outpaces the SiFive’s P670 (using RISC-V) in peak single-thread performance. Despite the Cortex-A78's supremacy in raw performance, the P670 boasts twice the compute density compared to it. Hence, SiFive's P670 processor yields comparable peak single-thread performance to Cortex-A78, considering its chip being physically half the size of its rival. It's noteworthy that the Cortex-A78 was introduced in December 2020 through the Vivo X60 and X60 Pro, while the P670 was recently unveiled on November 1, 2022, indicating a nearly two-year disparity in research and development. ARM's latest processors now operate on the ARMv9 ISA, a substantial improvement over the Cortex-A78's ARMv8. Notably, ARMv9 processors offer around 30% higher performance and are 50% more energy-efficient. In terms of pure performance, ARM processors maintain their lead. However, SiFive's P670, with its double compute density over Cortex-A78, positions RISC-V processors advantageously for wearable technologies that thrive on compact processors. In the performance comparison between RISC-V and ARM, ARM's consistent iteration, comprehensive ecosystem, and wide range of options give it a notable performance advantage. However, RISC-V's modular nature and customization potential hold promise for specific use cases. The ongoing efforts of RISC-V proponents to narrow the performance gap will be a crucial factor in determining how well RISC-V can match ARM's established performance standards in the future. RISC-V vs ARM: Power EfficiencyRISC-VThe comparison of power efficiency between RISC-V and ARM architecture unveils intriguing insights into their respective prowess in managing energy consumption. As both architectures embrace the Reduced Instruction Set Computing (RISC) philosophy, it's essential to delve into the concrete data and measurable factors that differentiate their power efficiency performance. Power efficiency is a critical aspect of processor design, especially for embedded systems, IoT devices, and battery-powered applications. RISC-V's architecture emphasizes simplicity and modularity, which can contribute to improved power efficiency compared to more complex processor architectures. The RISC-V ISA allows for the implementation of processors with a small silicon footprint, reducing power consumption and enabling the design of energy-efficient devices. Several features of the RISC-V architecture contribute to its power efficiency. The fixed-length 32-bit instruction format simplifies decoding and reduces control logic complexity, leading to lower power consumption. The optional RV32C (or RV64C) compressed instruction set extension provides 16-bit compressed instructions, which can help reduce code size and improve energy efficiency by reducing instruction fetch and decode power. Furthermore, RISC-V's modular design allows for the implementation of custom extensions and hardware accelerators tailored to specific application requirements. This enables the development of processors that only include the necessary functionality, reducing power consumption by eliminating unused hardware features. Examples of power-efficient RISC-V processors include the PULPino processor, which is designed for IoT and wearable devices, and the GreenWaves GAP8 processor, which targets energy-efficient AI and machine learning applications at the edge. The GAP8 processor features a cluster of eight RISC-V cores and a dedicated hardware accelerator for convolutional neural networks (CNNs), achieving a power efficiency of up to 200 GOPS/W (Giga Operations Per Second per Watt) for AI workloads. ARMPower efficiency has been a key focus of the ARM architecture since its inception, making it the preferred choice for many mobile and embedded applications. ARM processors are designed to deliver high performance with low power consumption, enabling the development of energy-efficient devices across a wide range of applications. Several features of the ARM architecture contribute to its power efficiency. The use of a load-store architecture and a mix of fixed-length 32-bit and variable-length Thumb instructions simplifies decoding and reduces control logic complexity, leading to lower power consumption. Additionally, ARM processors often include power management features, such as dynamic voltage and frequency scaling (DVFS), which allows the processor to adjust its operating frequency and voltage based on workload requirements, further improving energy efficiency. ARM's processor families, such as the Cortex-A, Cortex-R, and Cortex-M series, are designed with different power and performance targets in mind. For example, the Cortex-M series is optimized for microcontrollers and low-power devices, with a focus on energy efficiency and ease of use. The Cortex-M4 processor, which operates at a frequency of up to 240 MHz and delivers a performance of 1.25 DMIPS/MHz, includes a hardware Floating-Point Unit (FPU) and DSP (Digital Signal Processing) extensions, making it suitable for signal processing and control applications with low power consumption. In the high-performance segment, ARM processors like the Cortex-A76 achieve excellent performance-per-watt ratios, making them ideal for power-constrained, high-performance devices such as smartphones and laptops. The Cortex-A76 processor operates at a frequency of up to 3 GHz and delivers a peak performance of 4.0 DMIPS/MHz while maintaining low power consumption. Overall, ARM's focus on power efficiency, combined with its extensive ecosystem and wide range of processor families, has enabled the development of energy-efficient devices across various industries and applications. Considering the measurable factors and industry trends, we conclude that ARM's refined power management techniques and specialized cores give it a palpable advantage in power efficiency. ARM's established ecosystem, extensive industry adoption, and demonstrated track record amplify its edge. While RISC-V holds promise due to its customization potential, its open nature requires a more extensive investment of time and resources to fully harness its energy-saving capabilities. RISC-V vs ARM: Ecosystem and SupportThe ecosystem and support surrounding architectural choices play a pivotal role in determining their practical viability. In the context of RISC-V and ARM, assessing the strengths and weaknesses of their respective ecosystems and support structures is essential for organizations seeking the most suitable solution for their projects. Ecosystem MaturityRISC-V - As an open-source architecture, RISC-V has attracted a diverse community of developers, startups, and researchers with over 200 members, including major technology companies such as Google, NVIDIA, and Western Digital.
- Compared to ARM, RISC-V's ecosystem is relatively younger but rapidly growing.
- While it might not match ARM's scale yet, its open nature fosters collaboration, customization, and innovation.
ARM - On the other hand, ARM has cultivated a mature and expansive ecosystem. Its licensing model has led to a vast array of ARM-based products, with over 180 billion ARM chips shipped to date.
- Its ecosystem encompasses a wide range of hardware partners, software tools, and established development boards.
- Lastly, It offers a wealth of resources, support, and a proven track record of successful integration into various applications.
Hardware & SoftwareRISC-V In terms of hardware support, several semiconductor companies have developed RISC-V processors and systems-on-chip (SoCs), including SiFive, Andes Technology, and Microchip. These companies offer a variety of RISC-V-based products, ranging from low-power microcontrollers to high-performance application processors. Additionally, the open-source nature of RISC-V has led to the development of numerous open-source processor designs, such as the PULPino and the RISC-V BOOM Out-of-Order Superscalar processor. As Amazon and other tech giants explore RISC-V's capabilities, the landscape of CPU architecture is undergoing a notable shift, with open-source hardware gaining prominence in previously untapped domains. On the software side, the RISC-V ecosystem includes support for various operating systems, including Linux, FreeBSD, and real-time operating systems (RTOS) like FreeRTOS and Zephyr. - RISC-V's ecosystem is relatively newer but expanding rapidly.
- Its open nature encourages experimentation and specialization.
- Developers can customize the architecture to suit specific needs, resulting in tailored solutions.
- While the ecosystem might not be as mature as ARM's, it offers flexibility and potential for niche applications.
ARM Major semiconductor companies, such as Qualcomm, Samsung, and Apple, have developed their own ARM-based processors, catering to various market segments and performance requirements. These processors are used in a wide range of devices, including smartphones, tablets, IoT devices, and embedded systems. On the software side, the ARM ecosystem includes support for numerous operating systems, such as Linux, Android, iOS, and Windows, as well as real-time operating systems (RTOS) like FreeRTOS and VxWorks. - ARM benefits from a comprehensive and mature ecosystem.
- Its architecture powers a vast array of devices, from smartphones to servers, ensuring a wide range of hardware options, software tools, and libraries.
- Developers can choose from various development boards, compilers, and debugging tools.
Industry AdoptionRISC-V - RISC-V is gradually gaining traction in sectors where customization, openness, and innovation are paramount.
- Its adoption might not be as widespread as ARM's, but its increasing popularity in areas like edge computing, desktop systems, and IoT indicates a growing ecosystem that caters to specific needs.
ARM - ARM's extensive adoption across industries lends itself to stable and well-supported solutions.
- Its architecture is deeply integrated into various sectors, making it a go-to choice for many developers.
- The prevalence of ARM-based devices ensures a vast market and a robust ecosystem.
To conclude, while ARM's extensive ecosystem offers stability, proven tools, and a wide range of hardware options, RISC-V's open-source nature fosters collaboration, customization, and innovation. The choice between the two architectures depends on the specific requirements of the project, with ARM catering to established industries and RISC-V offering a platform for those seeking flexibility and unique solutions. Licensing and Business ModelsThe world of semiconductor architecture is not solely defined by technical capabilities; it's also shaped by the business and licensing strategies of the major players. This comparison delves into the licensing and business models of RISC-V and ARM, shedding light on how these approaches influence the development, adoption, and customization of processors. RISC-VOpen-Source Licensing - RISC-V operates under permissive open- and royalty-free licenses, such as the Apache License 2.0.
- This encourages transparency, collaboration, and innovation as developers can freely access, study, modify, and distribute the architecture.
Flexibility - The open-source nature of RISC-V allows organizations to tailor the processor architecture to their specific needs.
- Customization is possible through extensions and configurations, enabling the creation of optimized processors for diverse applications.
Reduced Costs - One of the major attractions of RISC-V is the elimination of licensing fees.
- This can significantly lower the costs associated with adopting and developing products based on RISC-V processors.
Ownership Control - Organizations using RISC-V have full control over their processor designs, reducing dependence on a single vendor.
- This ownership control can be particularly advantageous for companies aiming to protect their intellectual property.
ARMLicensing Tiers - ARM offers multiple licensing tiers, including the ability to access various instruction sets and architectures based on the licensing level.
- This tiered model allows companies to choose the level of access that aligns with their requirements.
Proprietary Elements - While ARM provides openness through its architecture, some advanced features or technologies might be proprietary and require licensing agreements.
- This mix of openness and proprietary elements allows ARM to maintain a balance between customization and protection of valuable innovations.
Licensing Fees - Depending on the extent of usage, ARM's licensing model often involves licensing fees.
- These fees contribute to ARM's revenue model and can impact the overall cost structure for companies using ARM processors.
Vendor Relationship - Adopting ARM processors often involves partnerships with ARM or its licensees.
- Companies might collaborate closely with ARM to access premium features, support, and customizations
In comparison, while RISC-V offers open-source licensing, flexibility, reduced costs, and ownership control, ARM provides licensing flexibility, a mix of proprietary and open elements, licensing costs, and a collaborative ecosystem. Both options have unique advantages that organizations should consider when selecting a processor architecture for their projects. Use Cases and ApplicationsRISC-VRISC-V processors are suitable for a wide range of use cases and applications, thanks to their modular and extensible architecture. The flexibility of the RISC-V ISA enables the development of custom processor designs tailored to specific application requirements, making RISC-V an attractive option for various industries and markets. In fact, companies like Amazon have recognized the potential of RISC-V in enabling customized solutions for their specific needs. One of the primary use cases for RISC-V processors is in low-power embedded systems and IoT devices. The simplicity and power efficiency of RISC-V make it an ideal choice for applications with tight energy constraints, such as wearables, smart sensors, and home automation systems. Examples of RISC-V-based IoT devices include the GreenWaves GAP8 processor, which targets energy-efficient AI and machine learning applications at the edge, and the PULPino processor, designed for IoT and wearable devices. RISC-V processors are also gaining traction in the data center and high-performance computing (HPC) markets. The modularity of the RISC-V ISA allows for the development of high-performance processors with custom extensions and hardware accelerators, enabling efficient processing of complex workloads such as AI, machine learning, and big data analytics. Examples of RISC-V-based HPC processors include the SiFive U74 and the RISC-V BOOM Out-of-Order Superscalar processor. Additionally, RISC-V is being explored for use in safety-critical and real-time systems, such as automotive, aerospace, and industrial control applications. The open-source nature of RISC-V enables transparent and thorough verification of processor designs, which is crucial for ensuring the safety and reliability of critical systems. ARMARM processors are used in a diverse range of use cases and applications, thanks to their power efficiency, performance, and extensive ecosystem. The various ARM processor families, such as Cortex-A, Cortex-R, and Cortex-M, cater to different market segments and performance requirements, making ARM a versatile choice for many industries and markets. One of the most prominent use cases for ARM processors is in mobile devices, such as smartphones and tablets. The power efficiency and performance of ARM processors make them an ideal choice for battery-powered devices with demanding workloads. Major smartphone manufacturers, including Apple, Samsung, and Huawei, rely on ARM-based processors for their flagship devices. ARM processors are also widely used in embedded systems and IoT devices, such as smart sensors, home automation systems, and industrial control systems. The Cortex-M series, designed for microcontrollers and low-power applications, is particularly well-suited for these use cases. Examples of ARM-based IoT devices include the STM32 series of microcontrollers from STMicroelectronics and the nRF52 series of wireless SoCs from Nordic Semiconductor. In addition to mobile and IoT applications, ARM processors are increasingly being adopted in the data center and high-performance computing (HPC) markets. The ARM Neoverse platform, which includes the Neoverse N1 and E1 processors, targets cloud infrastructure and edge computing applications, offering high performance and energy efficiency for data center workloads. Furthermore, ARM processors are used in safety-critical and real-time systems, such as automotive, aerospace, and industrial control applications. The Cortex-R series, optimized for real-time systems, offers fast interrupt response times and deterministic behavior, making it suitable for these demanding applications. ConclusionIn summary, both RISC-V and ARM processor architectures offer unique advantages and cater to different market segments and performance requirements. RISC-V's open-source, modular, and extensible architecture enables the development of custom processor designs tailored to specific applications, making it an attractive option for various industries. The success of open-source Linux demonstrates the power of collaboration, innovation, and accessibility in reshaping an industry. Similarly, RISC-V's open design ethos empowers customization and invites a community-driven approach. ARM's power efficiency, performance, and extensive ecosystem have made it the dominant choice for mobile devices, embedded systems, and IoT devices. The ongoing competition between RISC-V and ARM will continue to shape the future of the processor industry, with both architectures offering compelling solutions for different use cases and applications. Frequently Asked Questions (FAQs)What is the main difference between RISC-V and ARM architectures? RISC-V is an open-source instruction set architecture (ISA) based on reduced instruction set computing (RISC) principles, while ARM is a proprietary ISA that has become the dominant choice for embedded systems and mobile devices. Are RISC-V processors more power-efficient than ARM processors? Power efficiency depends on the specific implementation and target application. Both RISC-V and ARM architectures emphasize power efficiency, and processors based on these architectures can be designed to meet various power and performance requirements. Can RISC-V processors compete with ARM processors in terms of performance? The performance of RISC-V processors can be competitive with ARM processors, depending on the specific implementation and target application. RISC-V's modular and extensible architecture allows for a wide range of processor designs, from simple microcontrollers to high-performance application processors. What are the main use cases for RISC-V and ARM processors? RISC-V processors are suitable for a wide range of use cases, including low-power embedded systems, IoT devices, data centers, desktop systems, and high-performance computing applications. ARM processors are widely used in mobile devices, embedded systems, IoT devices, data centers, and safety-critical and real-time systems. How do the licensing models of RISC-V and ARM differ? RISC-V adopts an open-source licensing model, allowing semiconductor companies, researchers, and developers to create custom processor designs based on the RISC-V architecture without incurring additional costs. ARM follows a proprietary licensing model, licensing its processor IP to semiconductor companies, which in turn develop and manufacture ARM-based processors and systems-on-chip (SoCs). Nguồn: https://www.wevolver.com/
|
|